Trong một thời gian dài, mình cảm thấy cuộc sống thật ngột ngạt và bế tắc, mặc dầu bên ngoài có lẽ không ai nhận ra điều ấy từ mình. Cuộc sống của mình khá là êm đẹp, công việc thuận lợi, tài chính cũng ổn định, thật sự chẳng có lý do gì để mình than phiền cả, và mình biết mình đã may mắn hơn biết bao nhiêu người ngoài kia.
Tuy nhiên, mình không thể rũ bỏ cái suy nghĩ cứ chực chờ ám ảnh mình hằng đêm, rằng mình là một đứa thật vô dụng, bất tài. Mỗi khi nhìn thấy thành tựu mà bạn bè mình đạt được, mình vừa ngưỡng mộ họ, nhưng đồng thời cũng chán ghét chính mình vì đã không giỏi bằng họ, dù rằng cũng học cùng trường cùng lớp với nhau đấy thôi. Mình cảm thấy thất bại khi nhìn những người bạn đồng trang lứa như đang sống hết mình với đam mê, người thì có dự án xã hội, người thì mở công ty riêng, trong khi mình thì thụ động chẳng dám làm gì vì dường như chẳng có gì khiến mình đủ tâm huyết để lao vào. Rồi mình càng tức giận với bản thân vì cho phép mình có những suy nghĩ tiêu cực như vậy.
Mình không thể chia sẻ những suy nghĩ này với bất kì ai, vì họ sẽ không hiểu được, có thể còn cho là mình rất dở hơi ấu trĩ. Nhưng mình biết, mình phải tự tìm cách thoát ra, vì nếu không mình e rằng bản thân sẽ rơi vào trầm cảm.
Mình vẫn luôn cho rằng, mình trải qua những cảm giác khó chịu kia, chẳng qua chỉ là vì mình không đủ lòng tin vào bản thân và cứ so sánh điểm yếu của bản thân với điểm mạnh của người khác, từ đó dẫn đến việc mông lung không có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, không dám tiếp cận những cơ hội phát triển mới, hoặc né tránh những thử thách mà mình cho là quá sức. Vậy thì chỉ cần học cách tin vào bản thân, cố gắng tránh xa mọi thứ dẫn đến sự so sánh, thì mọi thứ sẽ đâu vào đấy.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu những phương pháp để rèn luyện sự tự tin trong các tài liệu self-help, phần lớn phương pháp đều khiến mình cảm thấy như họ đang dạy mình cách thôi miên bản thân vậy. Những guru self-help có vẻ xem bộ não như một cỗ máy có thể được lập trình. Thông qua việc liên tục nạp vào những suy nghĩ tích cực về bản thân, bộ máy này sẽ dần dần tạo lập được thói quen và xử lý mọi suy nghĩ theo cơ chế mặc định này.
Một phương pháp mà mọi người dường như đều nói đến, là “fake it till you make it” – thực tế luôn làm mình khó chịu. Có thể là mình quá xét nét về mặt câu chữ ngữ nghĩa, nhưng khi nghe câu này, mình cảm thấy nó rất sáo rỗng và đi ngược lại giá trị sống của mình, vì mình ghét việc phải giả tạo tỏ ra một điều gì đó mình không phải. Mình đã làm việc với những con người tự tin có thừa dù năng lực thực sự không có. Họ rất dễ tạo ấn tượng là một người am hiểu và lấy được sự tin tưởng ban đầu từ người khác, nhưng chỉ đến khi làm việc chung mới biết kiến thức và tư duy của họ không như vẻ bề ngoài, và mình không muốn bản thân giống những con người này, chỉ biết nói mà không biết làm. Nếu tự tin mà không đi kèm năng lực thực sự thì đối với mình nó chỉ là một dạng tự huyễn mà thôi.
Điều duy nhất khiến mình vẫn còn có chút tự hào, là đã làm gì thì mình cũng cố gắng hết sức. Ít nhất sau này nhìn lại, mình cũng không là một con người sống vô trách nhiệm. Tuy nhiên, cảm giác mông lung vô định và chán nản thì vẫn ở đó. Nó giống như mình biết mình đang leo núi, cứ tiếp tục bước đi thì dù không lên cao cũng gọi là có tiến về trước, nhưng mình không biết liệu mình có khả năng lên tới đỉnh được không, bao giờ lên tới, trên đỉnh có gì hay, rồi nếu mệt quá thì kiếm ngọn núi khác leo liệu có khá hơn không, mất bao lâu để chuyển qua ngọn núi khác.
Chỉ đến năm vừa rồi mình mới nhận ra một điều rằng, mình đã suy nghĩ hoàn toàn sai cốt lõi vấn đề, và nó giải thích cho việc tại sao mình không thể loại bỏ những bất an trong lòng.
Khi bệnh dịch Covid đến, nó làm mình cảm nhận được sự mong manh ngắn ngủi của cuộc sống hơn bao giờ hết. Đột nhiên mình có suy nghĩ: nếu đây là tuần cuối cùng mình được sống, vậy thì mình sẽ làm gì, điều gì là thứ thật sự quan trọng trong cuộc sống của mình? Và trong những thứ mình nghĩ đến, không có gì bất kì thứ gì liên quan đến việc đi làm kiếm tiền hoặc để lại thành tựu gì cả. Những gì mình quan tâm, chỉ là mình sẽ dành được bao nhiêu thời gian ở bên cạnh gia đình bạn bè, và mình sẽ dùng thời gian rảnh để đọc nốt những quyển sách nào.
Chính điều này làm mình nhận ra, hóa ra trước giờ mình đã đặt sai câu hỏi cho bản thân rồi, đáng lý ra mình phải hỏi rằng: “Tại sao mình lại quan tâm đến việc mình có giỏi hay không như vậy? Mình muốn có thành tựu là để chứng tỏ điều gì nếu như thời gian cuối đời mình chẳng hề quan tâm đến việc đó?” Mọi người chỉ hay nói về việc không dám bắt đầu làm một điều gì đó vì sợ, vì thiếu lòng tin vào bản thân, nhưng hầu như ít ai thực sự ngẫm lại rằng, mình muốn làm chuyện đó để làm gì. Câu hỏi không còn là “how”, mà câu hỏi là “why”.
Và mình nhận ra, mọi thứ mình cố gắng làm, cốt để khỏa lấp nỗi lo lắng rằng cuộc sống của mình không có giá trị, mình phải đạt được gì đó để chứng minh với bản thân mình đã sống một cuộc đời xứng đáng. Đó là một vấn đề thuộc về “khủng hoảng hiện sinh” (existential crisis) – đi tìm ý nghĩa hay mục đích cho cuộc sống.
Nếu ngày xưa, khi chỉ còn tuổi ăn tuổi học, mình có thể chỉ tập trung vào việc đạt kết quả tốt trong trường là được. Nhưng khi bước vào đời, phải chịu trách nhiệm gây dựng sự nghiệp, mình bắt đầu trăn trở về việc phải có một thành tựu gì đó, không phải vì nó khiến cho mình hạnh phúc hơn, mà chỉ vì nó chứng minh được cho mình rằng mình không phải là một thất bại của tạo hóa. Hơn thế, khi mà xã hội ngày nay ngày càng đề cao tinh thần khởi nghiệp, “hustle culture”, “hãy làm việc khi mọi người đang ngủ”, và những người bạn mình biết đều có công ty riêng, thì tiềm thức mình càng in sâu rằng nếu không có đam mê để dấn thân, không có hoài bão, không tạo được sự nghiệp hay để lại gì đó cho đời, thì cuộc sống mình là hoàn toàn vô nghĩa.
Đó là lí do mà càng về sau này, mình luôn có cảm giác tội lỗi khi muốn dành thời gian cho một sở thích nào đó mà sở thích này không thực sự giúp ích cho việc tăng năng suất công việc hoặc làm cho mình hiểu biết hơn. Chính việc quá tập trung tìm kiếm một điều gì đó khiến mình có thể dốc hết tâm huyết, mà mình đã phớt lờ những niềm vui nhỏ bé hiện hữu trong cuộc sống thường ngày, và vô tình đánh mất những thứ thực sự làm cho cuộc sống mình có ý nghĩa.
Khi nhận thức được điều này, mình hiểu ra rằng, thứ mình cần làm trước tiên nhất, chính là học cách khoan dung với chính mình. Mình cần tha thứ cho sự không hoàn hảo, thiếu khuyết trong con người mình, và hiểu được rằng mình xứng đáng được tồn tại và sống hạnh phúc ngay lúc này, ngay cả khi mình không có một di sản gì đó để lại cho đời. Một đứa bé khi chào đời, nó đã đóng góp được thành tựu nào đâu, nhưng chỉ cần sự có mặt của nó trên đời đã là quý giá vì nó chính là hiện thân cho hạnh phúc của cha mẹ.
Trong guồng quay tất bật của cuộc sống, mình đã vô tình xem nhẹ những giá trị nội tại khác mà mình có thể đem đến cho mọi người. Thật buồn cười là mình không bao giờ đánh giá người khác qua công việc, nhưng lại luôn dùng sự thành công trong nghề nghiệp làm thước đo giá trị của bản thân. Đương nhiên, có một mục tiêu để phấn đấu, một hoài bão để thực hiện, sẽ giúp làm giàu màu sắc và trải nghiệm cho cuộc sống. Nhưng nó không giúp tăng hay giảm giá trị nội tại của chúng ta, hay quyết định rằng cuộc sống của ta là xứng đáng hay không.
Một thảo nguyên đẹp cần hằng hà sa số ngọn cỏ, và mỗi ngọn cỏ đều xứng đáng được sống trọn vẹn cuộc đời nó, dù là thứ giá trị nhất nó cống hiến trong suốt vòng đời chỉ là góp thêm một chút màu xanh cho bãi thảo nguyên đó.
Khi đã thông suốt điều này, mình thôi không còn ép bản thân phải đặt ra một tham vọng hoài bão nào, và bất giác mình cũng không còn so sánh bản thân với người khác liên tục như trước. Mình cho phép bản thân làm những việc đem lại niềm vui cho cuộc sống của riêng mình, mà không còn cảm thấy tội lỗi là mình đang phí phạm thời gian để gầy dựng một điều gì đó to lớn hơn. Bởi vì cuộc sống này chỉ có ý nghĩa, khi nó có ý nghĩa với mình, mà không phải với một ai khác. Những điều tưởng rất căn bản, nhưng mình đã phải mất một khoảng thời gian rất dài để học.
Điểm mấu chốt là, tự mỗi người chúng ta, phải tự định nghĩa lấy đâu là một cuộc sống ý nghĩa cho chúng ta. Đừng để xã hội hay bất cứ ai định nghĩa thay bạn, bởi những thứ khiến họ hạnh phúc không hẳn là thứ khiến bạn hạnh phúc. Khi hiểu rõ điều này, mình đã trải nghiệm được một sự giải phóng và thỏa mãn chưa từng có – vì lần đầu tiên trong đời, mình cho phép bản thân đón nhận hạnh phúc, mà không cần chứng minh điều gì cả.
Mình xin trích bài thơ về thành công của nhà thơ Ralph Waldo Emerson, bởi đó cũng chính là cách mình nhìn nhận về ý nghĩa cuộc sống mà mình muốn xây dựng, thông qua mỗi hành động nhỏ trong cuộc sống thường ngày.
Thành công là gì?
Là thường xuyên cười sảng khoái và yêu thương thật nhiều;
Là có được sự tôn trọng từ những người thông thái và sự quý mến từ trẻ em;
Là giành được sự chấp thuận từ những nhà phê bình chân thật và chịu được sự phản bội từ những người bạn giả tạo;
Là trân trọng cái đẹp;
Là thấy được điểm tốt nhất của người khác;
Là trao đi mà không hề mong được nhận lại;
Là để lại cho thế giới một điều gì đó tốt đẹp hơn, dù là một đứa trẻ khỏe mạnh, một tâm hồn được giải thoát, một khu vườn hoặc một vấn nạn xã hội được khắc phục;
Là nhiệt tình vui cười và hân hoan ca hát;
Là biết được rằng nhờ sự tồn tại của bạn mà cuộc đời của một ai đó đã trở nên dễ dàng hơn;
Đây chính là thành công.

Trân trọng những suy nghĩ và chia sẻ rất thực của bạn. Mình đang tìm đọc về khủng hoảng hiện sinh, sau 1 loạt các bài viết có vẻ “lý thuyết hoá” thì bài của bạn làm mình dừng lại. Vì mình thấy hình ảnh và bóng dáng mình trong ấy, vì mình thấy sự tương đồng.