[Cảm nhận] The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore

51G3iqphXoL

Đã bao giờ bạn tưởng tượng cuộc sống mình sẽ ra sao khi câu chữ biến mất và sách vở không còn tồn tại chưa? Đó là cảm giác gì, trống rỗng, lạc lõng, cô độc? 

Tôi chưa hề nghĩ đến điều đó, mãi cho đến khi tôi xem đoạn phim ngắn “The fantastic flying books of Mr.Morris Lessmore” của William Joyce. Những cảm xúc mà nó mang lại trong tôi dồn dập tựa như những đợt sóng mạnh mẽ ập đến. Chỉ trong vỏn vẹn 15 phút ngắn ngủi, “Những quyển sách bay kì diệu của ông Morris Lessmore” đã truyền tải đến người xem một câu chuyện đầy xúc động về sức mạnh chữa lành kì diệu của sách. Nó khiến tôi đau đến rơi nước mắt, cũng khiến tôi chìm trong hạnh phúc bồng bềnh.

“Morris Lessmore loved words.
He loved stories.
He loved books.
But every story has its upsets.” – William Joyce

Bộ phim mở đầu với cảnh một cơn bão dữ dội quét ngang thành phố và tàn phá tất cả mọi thứ, cuốn bay sách, cuốn bay chữ viết. Dù Morris Lessmore có cố gắng đuổi theo bảo vệ quyển sách ông đang viết bằng cách nào đi nữa thì cũng vô dụng, khi cơn bão kết thúc, cuốn sách của ông cũng chỉ còn là những tờ giấy trắng. Tôi thiết nghĩ, đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn giông tố trong cuộc đời chúng ta, nhất là khi bộ phim lấy cảm hứng từ chính cơn bão Katrina đổ bộ qua Mĩ. Nếu chuyện tương tự như vậy xảy ra với chúng ta, liệu chúng ta sẽ thế nào? Có lẽ chúng ta cũng sẽ như Morris, như những người ở thị trấn đó, chúng ta sẽ tuyệt vọng, lang thang, vô định, và xám xịt. Để rồi, tại một vùng đất mới, chúng ta lại được cứu rỗi nhờ sách. Được dẫn lối bởi những quyển sách bay – những quyển sách có hồn có chữ – Morris một lần nữa tìm được màu sắc cuộc sống và cảm hứng đặt bút. Và rồi ông trở thành người quản thủ thư viện kế nhiệm, tiếp tục đem màu nhiệm của sách đến cùng những người khác.

Trong phim có một cảnh tôi thấy rất tâm đắc. Đó là khi Morris Lessmore cố gắng cứu mạng sống của một cuốn sách. Cuốn sách ấy đã cũ lắm rồi, bìa sách sần sùi, gáy cũng long ra, và những trang sách thì bay tán loạn. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi không ai ngó ngàng đến nó. Vậy nên, khi Morris đã dán lại quyển sách hoàn chỉnh thì nó vẫn nằm đó bất động. Chỉ khi ông dò từng câu từng chữ để đọc thì nó mới thực sự hồi sinh. Quả là một bài học hay được lồng kết khéo léo: sách không người đọc thì cũng chỉ là quyển sách chết. Sách sẽ không bay được nếu điều kì diệu trong nó không được ai thưởng thức.

Phim kết thúc đẹp và dịu dàng đến mức tôi bật khóc. Xuân qua, hè sang, thu tàn, đông đến, cuộc sống của Morris cứ thế trải qua cùng sách và thư viện, cho đến khi ông già đi và đặt dấu chấm hết cho quyển sách của chính mình. Để rồi, như trước kia khi ông được dẫn lối tới thư viện bởi Humpty Dumpty, sách của ông lại đưa một cô bé khác tới thư viện mầu nhiệm này. Dù Morris ra đi, nhưng những câu chuyện mà ông săn sóc giữ gìn sẽ tiếp tục sống mãi cùng thời gian.

Tôi luôn thích phim ngắn vì sự cô đọng hàm súc của chúng, mà phim này lại càng thêm xuất sắc. Cốt truyện của phim tuy thực đơn giản nhưng nó lại giàu giá trị ẩn dụ, liên tưởng, và quan trọng hơn cả là chạm đến tâm khảm của người xem. Morris chính là đại diện cho những người yêu quý sách, và những người đó sẽ luôn tìm được đồng cảm với bộ phim này. Tuy nhiên, ngoài giá trị nội dung ra, bộ phim này cũng không hề kém cạnh về mặt hình thức. Từng thước phim ra đời là kết quả của sự vận dụng khéo léo công nghệ 3D hiện đại, 2D truyền thống, dựng mô hình, và lựa chọn âm nhạc phù hợp. Năm 2012, bộ phim thắng giải Oscar cho phim họat họa cũng như một số giải khác. Tôi nghĩ điều đó đủ để minh chứng cho chất lượng nghệ thuật tuyệt vời của bộ phim này.

Nếu bạn là một người yêu đọc sách thì đây chắc chắn là đoạn phim ngắn không thể bỏ qua. Hãy xem để cảm nghiệm và hồi tưởng tình yêu tinh khôi khi lần đầu bạn chạm vào sách và để nó biến đổi cuộc đời mình.

[Thoughts] Art, Copy & Code – “Re-imagine Advertising”

art-copy-code-ili-noviqt-proekt-na-google

Đầu năm 2013, Google khởi động dự án Art, Copy & Code tiếp sau thành công của dự án Project Re:Brief với lý tưởng biến các thông điệp quảng cáo trở thành những trải nghiệm độc đáo nhất cho người sử dụng nhờ công nghệ thông tin.

Đã qua rồi thời mà quảng cáo đơn thuần là những bản tin đăng báo, những mẩu phát thanh, những thước phim trên TV, người tiêu dùng không còn lệ thuộc vào quảng cáo, và họ không chỉ ngồi một chỗ để được dội bom quảng cáo. Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của Internet và thông tin ngày càng trở nên bão hòa, sự tương tác giữa người tiêu dùng và thông điệp quảng cáo trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết. Chính sự tương tác này sẽ quyết định mức độ ghi nhớ, yêu thích, và sự trung thành của khách hàng đối với thương hiệu. Để làm được điều này, những người làm marketing tận dụng những trang mạng xã hội để gần khách hàng hơn. thiết kế website thông minh hơn, hay tạo ra vô vàn các ứng dụng trên các thiết bị di động. Lúc này đây, quảng cáo đã thoát ra khỏi phạm vi truyền thống là Art và Copy – nghệ thuật và từ ngữ. Sự phát triển của công nghệ đòi hỏi một yếu tố mới năng động và linh hoạt hơn, đó là Code – mã lập trình.

Code đóng vai trò thế nào ư? Nói một cách đơn giản dễ hiểu, Code chính là yếu tố giúp “cá nhân hóa” bất kì mẫu thông điệp quảng cáo nào, khiến cho những gì bạn đọc, nghe, nhìn được là những trải nghiệm hoàn toàn thuộc về cá nhân bạn. Tuy nhiên sự “cá nhân hóa này” không chỉ dừng ở giới hạn khách hàng tiếp nhận thông điệp mà còn tiến xa hơn tới việc khách hàng muốn tương tác với sản phẩm và thương hiệu. Bằng cách khiến khách hàng cảm thấy bản thân đặc biệt hơn, được quan tâm săn sóc hơn, việc “cá nhân hóa” này sẽ góp phần tạo nên mối dây liên hệ tình cảm mật thiết hơn giữa thương hiệu và khách hàng. 

Nắm bắt xu hướng này, Google, với tầm vóc của người khổng lồ luôn dẫn đầu công nghệ và thu lợi nhuận từ quảng cáo mạng, một lần nữa khẳng định vị trí của mình bằng cách hợp tác với những thương hiệu nổi tiếng khác để tạo nên những chiến dịch marketing không chỉ giàu hơn về hình thức nội dung mà còn giàu hơn về xúc cảm và kết nối với người dùng. Nghệ thuật kể chuyện và sự thấu hiểu khách hàng vẫn luôn là cốt lõi làm nên sự thành công của bất kì thông điệp quảng cáo nào – điều này đến giờ vẫn không hề thay đổi, tuy nhiên, cách tiếp cận nhờ kĩ thuật trong thời đại hiện nay sẽ càng khiến sự sáng tạo được phát huy mạnh mẽ và mang lại nhiều giá trị cho khách hàng hơn. Hãy xem đoạn giới thiệu này để cảm nhận rõ hơn tinh thần của dự án Art, Copy & Code.

Sau đây là một số những dự án mà Google hợp tác thực hiện nằm trong chương trình Art, Copy & Code.

SmileDrive

https://www.youtube.com/watch?v=qM9ce0C1iWo

Dự án đầu tiên là ứng dụng SmileDrive cho xe hơi do Google hợp tác với Volkswagen. Ứng dụng này cho phép người dùng kết nối với xe hơi của họ và đo mức độ vui vẻ của từng chuyến đi dựa trên những thông số như thời gian, địa điểm, quãng đường, thời tiết, cũng như những hoạt động và hình ảnh được chia sẻ với người khác dọc theo hành trình. Dù SmileDrive có khả năng tương thích với cả những hãng xe khác ngoài Volkswagen, hiệu quả truyền thông của ứng dụng này thực chất nằm ở việc nó giúp thể hiện và đẩy mạnh tinh thần chiến dịch “Get In. Get Happy” năm 2013 của Volswagen theo một cách thực tiễn hơn. Với ứng dụng SmileDrive, Volkswagen đã tiến một bước xa hơn trong việc truyền tải được thông điệp xe không chỉ là một phương tiện di chuyển nhàm chán, mà mỗi giây phút ngồi trên xe đều có thể góp phần tạo nên một hành trình thú vị.

Burberry Kisses

Một dự án khác cũng gây được nhiều chú ý gần đây là ứng dụng Burberry Kisses cho phép người dùng gửi những cánh thư điện tử được niêm phong lại với một nụ hôn của chính người gửi. Vừa thân mật, riêng tư, nồng nàn cảm xúc, lại mang phong cách quý phái cổ điển, Burberry Kisses khiến người dùng cảm nhận rõ nét hơn đẳng cấp sang trọng của Burberry, cũng đồng thời tạo nên giá trị lan truyền mạnh mẽ cho thương hiệu bởi cách thể hiện thông điệp tình yêu vô cùng ấn tượng. Với mục tiêu hướng đến những người trẻ đang quay lưng lại với quảng cáo truyền thống, Burberry Kisses đã thành công trong việc thỏa mãn tiêu chí giúp mọi người kết nối một cách tiện lợi nhanh chóng mà vẫn giữ được nét lãng mạn truyền thống của thương hiệu.

Talking Shoes

Một dự án nữa là đôi giày biết nói “Talking Shoes” hợp tác bởi Google và YesYesNo – một công ty về công nghệ tương tác – để nhân bản hóa đôi giày Adidas. Bằng ứng dụng công nghệ, Google thổi hơi tính cách cho chiếc giày, và trao cho nó khả năng bình luận, biểu lộ cảm xúc cùng mỗi bước đi của bạn. Trong tương lai, hãy tưởng tượng xem công nghệ này được các hãng dụng cụ quần áo thế thao vận dụng trong quảng cáo thế nào, chắc chắn là sẽ rất thú vị.

Kết luận:

Art, Copy & Code là cách Google thể nghiệm sự kết hợp giữa công nghệ và nghệ thuật kể chuyện để tạo nên những quảng cáo có ý nghĩa và thực dụng hơn. Trên phương diện PR, đây là một kế hoạch xây dựng thương hiệu xuất sắc. Còn trên phương diện khách hàng, điều này cũng thể hiện rõ đường lối hoạt động của Google là đem đến nội dung có ích hơn cho người dùng, hoàn toàn nhất quán với những thay đổi gần đây trong chính sách vận hành công cụ tìm kiếm của Google. Nếu xét sâu sa hơn thì có lẽ đây là bước chuẩn bị của Google cho việc ra mắt Google Glasses hay những sản phẩm thông minh khác trong thời gian sắp tới, cũng đồng thời giúp hoàn thiện hệ sinh thái Google+. Tất cả mọi thứ đều liên kết, và tất cả mọi thứ đều dẫn về Google. Có phải đó là dụng ý của người khổng lồ? Chúng ta hãy cùng chờ xem.

[Life] Summer 2013

18112019015

Time flies so fast. It’s already coming to the end of summer, and I’m starting my fourth and final year at UBC soon. I think I have becoming a little bit more mature this year. The insecurities buried in my heart are still there, but I start to become more confident, more opening, and more forgiving to myself. Damn, I even know how to treat myself well with some luxury now.

This past year, I truly experienced what people call marketing, networking and “working” for the first time in my life. I had the opportunity to hear and learn from industry experts, entrepreneurs, venture capitalists, and consumers. Somehow I learned how to fake my anti-social side to meet and work with a variety of people. I learned to step out of my comfort zone. Although I’m still not as outgoing as I want, I know that I improved quite a lot, and it made me really happy. I wouldn’t dare to talk that much with other people when I was in high school.

I guess I found my passion. Marketing, that is it. I love the sweet combination between creativity, psychology, and analytics in marketing. Marketing deals with everything in a business – product, place, price and promotion. Marketing is an art, as you have to use both your instincts and critical thinking when making decisions. There is no formula for marketing, and that’s what makes it so charming and sexy. In marketing, creativity is pushed beyond limit. I’m amazed at how people using technology and visuals to deliver their messages. Check out the Art,Copy and Code project by Google to see the new movement in marketing in case you are interested. I don’t think I’m a very creative person, but I believe that if I learn hard enough then maybe someday I can also produce awesome ideas like those people. Sometimes I’m torn about what direction in marketing I should pursue. I know I’m way better at technical stuff, such as doing market research and analyzing, but I aspire to work with marketing plans in an agency environment as well. Well, hopefully I will find out soon. I’m looking forward to my two marketing classes in fourth year. One is about integrated communications, and one is marketing applications. For those two classes, I will be able to work with real companies, real clients. So excited, I can’t wait for the class to start.

A little update about what I’m doing recently. I just watched the Sea of Monsters movie. This movie is way better than The Lightning Thief movie. However, it still ruined the book and was so damn boring, just like the first movie did. I’m just so mad that I don’t want to talk about it any more. What else? Well, I’m doing some research on the cosmetics industry recently to see if there is any opportunity to launch a business. I learned so much about cosmetics in these two weeks, despite the fact that I don’t wear cosmetics myself. The more I learned about it, the more I realized how people are ignorant of dangerous ingredients and products. And I hate misleading labelling so much. I cannot stand those companies who lied to consumers about the ingredients in their products. “All natural”, “organic”,… all bullshit. And I wish Vietnamese people would stop being so foreign-oriented. Support Vietnamese business please!!! Some Vietnamese products are just as wonderful, don’t let commercials fool you. 

[Ngẫm] Chuyện thương hiệu

simplicity is Leonardo
Simplicity is the ultimate sophistication – ancient Italian artist Leonardo da Vinci quote printed on vintage grunge paper

“Simplicity is the ultimate form of sophistication”- Leonardo Da Vinci

Phải nói câu nói của ông đúng trong mọi trường hợp. Và trong chuyện branding cũng vậy. Mới đây mình đọc được một bài viết cũng khá hay về đề tài này.

Đền thờ thương hiệu.

Đây là vấn đề mà mình học được từ ngày đầu tiên trong lớp brand management. Các brand managers bây giờ luôn muốn gắn thật nhiều giá trị và associations (ý nghĩa liên đới) vào thương hiệu mà quên mất đi rằng cái cốt lõi của thương hiệu chính là tính relevance (liên hệ) đối với khách hàng. Càng làm thương hiệu phức tạp thì người dùng càng khó nhớ, và đâu đó họ sẽ bắt đầu nhận ra những mâu thuẫn trong ý nghĩa của thương hiệu, nếu brand manager không khéo léo khi tạo brand associations. Suy cho cùng, không ai uống nước ngọt có ga mà lại tin rằng mình đang giúp đỡ cho một vấn đề sức khỏe, cũng chẳng ai quan tâm nước rửa chén mình dùng có làm mềm tay hay không nếu việc cơ bản là rửa sạch chén thì không được. Rất nhiều chiến dịch marketing thất bại cũng vì người marketers không nhận ra được đâu là những lợi ích mà người dùng thật sự quan tâm tới. Và cái sai lầm tai hại hơn nữa là hình như các vị brand managers chỉ thích ngồi trong văn phòng máy lạnh, họp các cuộc họp cấp cao, lúc nào cũng là tăng trưởng, doanh thu, thị phần, nhưng không ai buồn quan tâm đến một cái đánh giá khảo sát thương hiệu. Họ bị mặc định về những thứ họ biết, họ tin vào thương hiệu, mà không biết là cái họ hiểu về thương hiệu khác xa những gì mà người dùng nhận định thương hiệu. Thật sự thì, có khi người dùng còn chẳng hiểu được slogan của thương hiệu nữa kìa. Nếu mà họ chịu khó làm một cái brand assessment thì có thể giúp giải quyết được bao nhiêu chuyện rồi.

[Tản mạn] Nét đẹp thơ Haiku

nét đẹp thơ haiku

142210sgsx39b1y7gxz73f-1114

Thích thơ Haiku, đơn giản và nhẹ nhàng, thanh thoát như những nét vẽ của tạo hoá. Thơ Haiku, rất ấn tượng. Đọc thơ Haiku, tôi có cảm giác như đang chạm vào thiên nhiên, chạm vào từng mùa, chạm vào những mảnh vỡ của cuộc sống. Chạm vào hoa đào, đom đóm, lá phong, tuyết trắng …

Haiku…

Không dài, nếu không muốn nói là thể thơ ngắn nhất của thế giới. Một thể thơ nổi tiếng của Nhật Bản.

Toàn bài chỉ có 17 âm tiết, có thể xếp thành 3 câu (5,7,5), tất nhiên là mỗi câu cực ngắn.

Trong tiếng Nhật, thơ haiku không có vần và thường không có nhan đề.

Đề tài của haiku là thiên nhiên bốn mùa và những khoảnh khắc độc sáng trong đời.

Chính vì thể mà tôi rất thích thể thơ này. Ngắn nhưng sâu. Một vài từ nhưng lại mở ra không gian mênh mang vô tận khiến bất cứ ai cũng phải suy nghĩ.

Haiku nhẹ nhàng trong âm tiết nhưng mạnh mẽ khi đánh thức tâm hồn người nghe. Haiku đơn sơ về hình ảnh nhưng hàn lâm trong cách nắm bắt thần thái sự vật qua một vài từ.

Do đó, thơ Haiku không có chỗ cho những tính từ hoa mỹ phù phiếm.

Nếu muốn thể hiện nỗi buồn, nhà thơ Haiku sẽ không nhắc đến từ buồn (hay sầu) mà sẽ xếp đặt hình ảnh để gợi lên nỗi niềm ấy. Như:

Trong âm u
Hiên nhà thấm ướt
Mưa thu
(Taigi)

Đặt chữ “buồn” vào bài thơ của Taigi sẽ là thừa. Hình ảnh hiên nhà ướt mưa ấy đã là nỗi buồn rồi, một nỗi buồn sờ được, nếm được và có thể nhìn thấy.

Hầu như mọi bài haiku đều gắn kết với mùa, một mùa nào đó trong năm. Do đó, bài nào cũng có từ “mùa” (gọi là kigo: quý ngữ). Vì sao?

Một số lý do khiến thơ haiku dùng từ “mùa”:

1. Thói quen truyền thống của thơ ca Nhật có từ xa xưa, đặc biệt với loại thơ liên ca (renga), thơ do nhiều người cùng làm, nối tiếp nhau.

2. Từ mùa chính là thi pháp của haiku, giúp nó có sức khơi gợi rất cao, vì mùa có không gian và thời gian rất lớn.

3. Bản thân người Nhật quá yêu thiên nhiên, quá yêu sắc màu của những mùa luân chuyển.

Những từ mùa thường gặp:

Xuân: oanh, én, bướm, ếch, đào, mơ, liễu …

Hạ: chim cu, đom đóm, ve sầu, chuồn chuồn, hoa bìm bìm, sen …

Thu: ngân hà, trăng, nhạn, quạ, lá phong, cúc, …

Đông: sương mù, tuyết, cánh đồng héo úa, năm tàn …

Để sáng tác haiku (hầu như xứ nào cũng có nhà thơ sáng tác theo thể haiku, kể cả Việt Nam), Soichi Furuta có một số lời khuyên như sau:

– Quan sát, khám phá …

– Mở rộng năm giác quan cũng như kí ức và tưởng tượng, tức cả tâm hồn.

– Thiên nhiên ở quanh ta và ở trong ta.

– Dùng từ mùa khi thích hợp.

– Có sổ tay ghi chép ngay những ý tưởng bất ngờ.

– Đọc nhiều thơ haiku của các nhà thơ bậc thày cũ và mới.

– Tránh dùng từ và hình ảnh sáo mòn.

– Tránh dùng tính từ nếu không thật sự cần thiết.

Mặc dù hầu hết những lời khuyên ấy đều có thể áp dụng cho mọi thể thơ nói chung, nhưng với haiku, đấy chính là những điều kiện tiên quyết thiết yếu.

Có hai bài thơ haiku mà tôi khá yêu thích.

Một là thơ của thi sĩ Basho:

Shizukasaya
Iwa ni shimiiru
Semi no koe

Dịch thơ:

Tịch liêu
Thấu xuyên vào đá
Tiếng ve kêu

Hai là thơ của họa sĩ Buson:

Đỉnh Yoshino
Nuốt vào mây trắng
Thở ra hoa đào.

Bình dị, không trau chuốt mà vẫn diễn tả đầy đủ tâm thức con người. Cái hay cái đẹp của Haiku là thế. Không cần biết bạn bắt đầu đọc Haiku từ khi nào, một khi đã nắm bắt được nét đẹp của Haiku, bạn chắc chắn sẽ bị hấp dẫn và đắm lòng sâu hơn cùng các cung bậc trầm lắng của cuộc sống.

[Review] TV show: Numb3rs

b83000344e5e655923a6565fa69a5ee0198171e0Numb3rs là một show trinh thám hình sự Mĩ ra mắt năm 2005, trải qua 6 mùa phim và kết thúc năm 2010. Nói đến hình sự thì mọi người đa số sẽ nghĩ đến những show kiểu như CSI, Bones, Criminal Intent,… Numb3rs có nét tương đồng tất yếu, tuy nhiên điều làm nên sự  đặc biệt của Numb3rs chính là việc vận dụng toán học để phá án và phông nền gia đình. Show xoay quanh hai anh em nhà Eppes – Don và Charlie. Don là trưởng đội đặc nhiệm FBI, còn Charlie là một thiên tài toán học ở CalSci. Dễ thấy, hai anh em họ sẽ hợp tác với nhau để ngăn chặn những vụ phạm pháp. Nhưng sâu xa hơn, Numb3rs là bài học về sự cảm thông, chia sẻ, về tình yêu tình bạn tình đồng đội, những điều khiến cho bộ phim truyền hình này trở nên gần gũi và dễ đi vào lòng người hơn. Đọc tiếp “[Review] TV show: Numb3rs”