[Review] Sách: Những tù nhân của địa lý – Tim Marshall

Gần đây, khi cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraina nổ ra, có một từ khóa mà mình bỗng nhiên lại nghe nhắc tới với tần suất nhiều hơn hẳn, đó là từ “địa chính trị”.  Vẫn biết địa lý đóng vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia và là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh xâm lược trong quá khứ, nhưng ở thời kỳ tương đối hòa bình hiện tại, khi mà hợp tác quốc tế dường như là xu hướng tất yếu, mình đã phần nào nghĩ rằng địa lý không còn là một rào cản quá lớn giữa các nước. Những căng thẳng đối đầu khi xưa có thể sẽ được dàn xếp để ưu tiên lợi ích kinh tế thương mại.

Thế nhưng có vẻ đó là một suy nghĩ có phần ngây thơ, bởi khi đọc quyển “Những tù nhân của địa lý” của Tim Marshall, một phóng viên và nhà báo người Anh, mình nhận ra rằng có lẽ các lãnh đạo quốc gia sẽ còn mất một thời gian rất dài để thoát khỏi “nhà ngục địa lý” đã hằn sâu trong tâm trí họ. Những đường biên giới và lãnh thổ ngày nay dù cho được hình thành bởi tự nhiên hay nhân tạo, tất cả đều được đổi bằng máu của biết bao thế hệ, sẽ tiếp tục tác động lên các chính sách đối ngoại của các nước.

Bản thân mình trước giờ khi nghĩ về địa lý thường chỉ nhớ đến các yếu tố như khí hậu, cảnh quan, hoặc các tài nguyên phục vụ mục đích kinh tế, chứ không nghĩ nhiều đến tính chiến lược của vị trí mỗi quốc gia trong tương quan với các nước khác. Phải thú thật là, có lẽ quốc gia duy nhất mà mình nắm được tương đối giá trị của địa lý với quân sự hay thương mại cho tới giờ chỉ có mỗi Việt Nam, quê hương của mình. Mãi đến khi đọc cuốn sách này, mình mới nhận thức được rõ nét hơn về cách địa lý đã và đang tác động lên quan hệ quốc tế của các nước, cũng như có một kiến thức nền tốt hơn để hiểu các tin thời sự đang diễn ra mà trước đây mình khá mù mờ.

Quyển sách được tác giả bố cục thành 10 chương, cũng là 10 vùng địa lý mà tác giả đi vào chi tiết, bao gồm: Nga, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Tây Âu, Châu Phi, Trung Đông, Ấn Độ và Pakistan, Triều Tiên và Nhật Bản, Châu Mỹ Latin, Bắc Cực. Ở mỗi chương, tác giả luận giải việc các kiến tạo tự nhiên giúp một quốc gia đạt được sức mạnh về kinh tế hay quân sự thế nào, chia cắt các sắc tộc ra sao, tạo nên các hàng rào phòng thủ tự nhiên hay đòi hỏi các biện pháp vũ trang cứng rắn.

Việc tác giả bắt đầu cuốn sách với chương về Nga có thể nói là một sự trùng hợp rất thú vị bởi ở thời điểm hiện tại khi mà cuộc chiến giữa Nga và Ukraine vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại, nó giúp mình nhận thức được rõ hơn bao giờ cái mà tác giả gọi là “tù nhân của địa lý”. Việc đất nước này thiếu một cảng nước ấm kết nối tự do ra các đại dương mà không bị đóng băng vào mùa đông, cũng như vùng biên giới bằng phẳng dễ công khó thủ của Nga ở đồng bằng Bắc Âu, luôn mãi là hai yếu điểm tự nhiên làm ám ảnh biết bao thế hệ lãnh đạo của đất nước này, từ Đại Công quốc Muscovy, qua thời Peter Đại Đế, đến Stalin và Putin. Để phần nào khắc phục điều này, Nga đã đánh đổi rất nhiều, bao gồm việc chiếm lại Crimea để xây dựng hạm đội hải quân tại cảng Sevastopol cũng như chi phối các đảng phái chính trị để giữ Ukraine là một nước trung lập không thuộc NATO nhằm duy trì vùng đệm phòng thủ cho mình.

Có thể với một người dân bình thường như mình, việc Ukraine có muốn gia nhập NATO hay không là chuyện của họ và chúng ta nên tôn trọng điều đó. Thế nhưng đối với một lãnh đạo như Putin, đây có thể ví như việc kẻ thù đang đem vũ khí đến sát cửa và có thể đe dọa an toàn lãnh thổ của Nga bất cứ lúc nào. Bỏ qua tất cả những lợi ích mà hòa bình mang lại cho kinh tế của Nga, bất chấp các quyết định trừng phạt quốc tế, Putin vẫn phát động chiến tranh để ép Ukraine từ bỏ ý định này. Putin có thể có lựa chọn khác đi không? Sẽ có nhiều người cho rằng chính vì địa lý của Nga mà Putin buộc phải tấn công như vậy, ông chỉ đang chơi ván bài mà tự nhiên đã sắp xếp cho Nga, và đó chính xác là “nhà tù” mà tác giả nói tới. Rất khó để những nhà lãnh đạo của một nước tin rằng những đường biên giới của họ sẽ luôn được bảo hộ an toàn, cũng như không ai muốn bị đặt vào thế bị động trong quận sự, và ngay cả sự hội nhập toàn cầu hóa cũng sẽ không xóa nhòa đi được những song tù tâm lý vô hình này.

Tương tự như vậy, Trung Quốc dù có nền kinh tế hợp tác chặt chẽ với Mỹ, nhưng về mặt chính trị hay quân sự, nước này luôn e ngại việc các hạm đội của mình bị cô lập khi đi ngang vùng biển Nhật Bản và eo biển Malacca, vốn được kiểm soát bởi các nước thân cận với Mỹ. Điều này dẫn đến việc họ không ngừng tìm kiếm một con đường khác để tiếp cận đại dương một cách tự do hơn, như là thuê cảng nước sâu tại Gwadar, Pakistan và cố gắng thiết lập tuyến đường bộ dẫn thẳng đến Trung Quốc, hay như việc xây dựng các đường ống dẫn khí và dầu mỏ nối trực tiếp đến vịnh Bengal thông qua Miến Điện. Và cũng như việc Nga muốn kiểm soát Ukraine, Trung Quốc kiên quyết muốn kiểm soát Tây Tạng để tạo ra một vùng đệm biên giới an toàn trước Ấn Độ, đồng thời đảm bảo thượng nguồn của ba con sông lớn của Trung Quốc sẽ không bị nước nào khác khống chế. Để đạt được mức độ phòng thủ cao nhất và giảm thiếu những hạn chế về mặt vị trí địa lý tự nhiên, các lãnh đạo Trung Quốc sẽ không ngừng thực hiện các chính sách đối ngoại vừa hợp tác vừa gây sức ép lên các nước lân cận, đồng thời dùng quyền lực mềm để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế.

Chương sách về Châu Phi và Trung Đông khắc họa hoàn cảnh của những quốc gia bị cầm tù trong không gian địa lý vừa do bàn tay tự nhiên sắp đặt, vừa do lịch sử nhào nặn. Quyển sách chỉ ra rất nhiều xung đột ở khu vực này thực chất là kết quả của sự vô trách nhiệm trong quá khứ khi các nước thực dân đã vạch ra những đường biên giới nhân tạo mà không hề có chút trân trọng với lịch sử và văn hóa người dân địa phương, để lại hậu quả là những cuộc chiến tranh sắc tộc dai dẳng đến tận ngày nay. Bản thân địa lý của những khu vực này đã hạn chế giao thương và tách biệt các dân tộc với nhau, việc tùy tiện cưỡng ép họ hợp thành các quốc gia dân tộc, vốn đòi hỏi một căn tính quốc gia thống nhất, chỉ làm trầm trọng thêm các vấn đề bạo lực diễn ra ở đây. Tuy vậy, rất may mắn là về mặt kinh tế, các quốc gia ở đây đang có những bước tiến mới nhờ tận dụng được lợi thế tài nguyên khoáng sản và đang sử dụng công nghệ để khắc phục những bất lợi mà tự nhiên an bài trước đây, như là tạo nên những cảng biển nước sâu và các ốc đảo bao quanh bởi sa mạc.

Ở vị trí ngược lại, các nước ở châu Âu được hưởng lợi rất nhiều về mặt địa lý tự nhiên, cho phép sự thông thương và phát triển kinh tế vượt trội, trở thành những nước cường quốc có điều kiện mở rộng phạm vi của mình khắp thế giới. Đây là những nước đi đầu trong lý tưởng về một thế giới phẳng hơn, nơi mà các nước có cùng những giá trị dân chủ và nhân quyền sẽ có thể hợp tác với nhau khăng khít hơn thông qua những chính sách kinh tế, đối ngoại và quân sự chung. Tuy nhiên, khi phải đứng trước các thách thức thực tiễn về việc các nước giàu phải giúp đỡ các nước nghèo hơn, hoặc về việc đón nhận các dòng người nhập cư hay tị nạn từ Trung Đông và châu Phi, mối dây liên kết giữa các nước EU lại có dấu hiệu tan rã, và các nước lại quay về cố thủ trong những đường biên giới của mình. Có lẽ đúng như tác giả nhận định, “địa lý cho chúng ta biết rằng nếu con người không liên tục cố chiến thắng các ‘quy luật’ của nó, thì những ‘quy luật’ ấy sẽ chiến thắng con người”, “đến lúc đó, chúng ta sẽ quay trở lại với một châu Âu với những quốc gia có chủ quyền, với việc mỗi một nhà nước đều tìm kiếm đồng minh trong một thế cân bằng của hệ thống quyền lực”.

Tuy nhiên, mình không nghĩ mục đích của tác khi viết quyển sách này là để nói rằng số phận các quốc gia là tất định, hay để tán đồng với các chính sách đối ngoại của lãnh đạo các nước dựa trên lý thuyết của địa chính trị. Thay vào đó, tác giả muốn chúng ta có một khung nền kiến thức bao quát để lý giải được những sự kiện đã và đang diễn ra trên thế giới, nhằm có những cuộc thảo luận chất lượng hơn về tương lai của loài người nói chung. Chúng ta vẫn sẽ bị giới hạn bởi môi trường, nhưng nhờ khoa học công nghệ, thế giới trong tương lai có thể sẽ được định hình bởi những mảng địa lý nhân tạo nhiều hơn bởi tự nhiên. Để rồi, khi mà con người có thể vượt lên được gông cùm tâm lý của sự sợ hãi và tham lam, cởi bỏ được sự nghi ngờ của mình đối với những “kẻ khác”, chúng ta sẽ có cơ hội thoát khỏi sự kìm hãm của địa lý để đem lại lợi ích chung cho tất cả mọi người.

Khép lại cuốn sách, mình tin rằng đây là quyển sách rất bổ ích và thú vị với những ai ít nhiều có mối quan tâm về các sự kiện thời sự đang diễn ra. Địa lý, chính trị hay lịch sử thường là những đề tài khô khan đối với số đông người đọc, thế nhưng cây bút kỳ cựu Tim Marshall đã rất khéo léo lồng nghép những chủ đề này để vẽ nên một bức tranh sinh động về mối quan hệ quốc tế giữa các nước. Đương nhiên đây cũng là những đề tài rất rộng nên những gì tác giả khai thác để viết vào sách chủ yếu mang tính chất nhập môn và khơi gợi hứng thú để người đọc tiếp tục tìm hiểu thêm. Ngoài địa lý thì sự phát triển của các quốc gia còn chiu sự chi phối của hệ tư tưởng, tôn giáo, thể chế pháp luật, khác biệt sắc tộc, đây là những điều tác giả có đề cập đến nhưng theo mình chưa đi đủ sâu sát trong quyển sách. Vấn đề di dân và việc hình thành căn tính của một quốc gia dân tộc cũng là những đề tài mà mình sẽ rất hứng thú để tìm hiểu thêm sau khi đọc qua quyển sách này.   

[Tản mạn] AI và 21 bài học cho thế kỷ 21 – Yuval Noah Harari

Gần đây, với việc nổi lên của ChatGPT như một hiện tượng công nghệ có khả năng thay đổi thế giới, mình không khỏi liên hệ đến một quyển sách cũng rất thú vị mà mình từng đọc: 21 bài học cho thế kỷ 21 của Yuval Noah Harari.

Nếu ai đã từng đọc qua SapiensHomo Deus thì chắc hẳn cũng biết tác giả có những góc nhìn về thế giới rất độc đáo, và điều đó lại tiếp tục phát huy trong cuốn sách này. Tuy nhiên, thay vì bàn về sự vận động của xã hội loài người theo tiến trình thời gian, từ quá khứ phóng dẫn đến tương lại như trong hai quyển sách trước, ở quyển 21 bài học cho thế kỷ 21, tác giả tập trung mổ xẻ những vấn đề lớn mà thế giới đang phải đối mặt ở thời điểm hiện tại nhiều hơn.

Nhưng đừng để tựa đề của quyển sách đánh lừa các bạn, bởi tác giả không đưa ra một đáp án hay bài học cụ thể nào cho chúng ta cả. Thay vào đó, dùng chữ “quan sát” thì có lẽ phản ánh đúng tinh thần tác giả hơn. Quyển sách này có thể xem như là một tập hợp 21 tiểu luận của tác giả xoay quanh nhiều chủ đề: từ ảnh hưởng của công nghệ thông tin và sinh học lên đời sống con người, đến những khó khăn trong hợp tác toàn cầu gây ra bởi các chia rẽ chính trị, tôn giáo, và văn hóa.

Trong đó, phần khiến mình hứng thú nhất có lẽ là về sự phát triển của trí tuệ nhân tạo. Với sự ra đời của một loạt công cụ AI làm mưa làm gió trên thế giới trong thời gian gần đây như Midjourney, ChatGPT, mình cảm thấy những luận bàn của tác giả về sự “đứt gãy công nghệ” đang diễn ra là một điều cần được mọi người quan tâm nhiều hơn.

Ở thời điểm hiện tại, Midjourney đã cho ra tác phẩm thắng giải một triển lãm tranh ở bang Colorado, còn ChatGPT thì đã cấu trúc được những văn bản tương đối mạch lạc và có cả chiều sâu nhờ khả năng tổng hợp dữ liệu khổng lồ của mình. Đa số mọi người đều cho rằng đây sẽ là những công cụ hỗ trợ con người vô cùng đắc lực, bởi nó sẽ giúp mọi người tiết kiệm thời gian hơn, hoặc loại bỏ những công việc đơn giản nhàm chán không kích thích tư duy sáng tạo. Nhìn chung mọi người có vẻ đồng thuận rằng đây chính là xu hướng phát triển tất yếu, và con người sẽ học được cách sử dụng AI để làm việc trong tương lai.

Tuy nhiên, cũng chính vì điều đó mà mình khá đồng ý với những quan ngại của tác giả về việc con người có thể sẽ phải đối mặt với sự vô dụng của chính mình trong tương lai không xa.

Trong quyển sách tác giả có đề cập đến câu chuyện về chương trình Alpha Zero đã đánh bại Stockfish 8, chương trình vô địch cờ vua máy tính thế giới vào năm 2016. Tuy nhiên, khác với Stockfish 8 được huấn luyện từ những nước cờ đúc kết bởi con người, kết hợp cùng khả năng tính toán của máy tính, thì Alpha Zero đã tự học chơi cờ từ con số không và sáng tạo ra những nước đi mới hoàn toàn bằng khả năng tự tổng hợp của nó, chỉ trong vòng 4 tiếng đồng hồ.

Chính vì Alpha Zero không dùng kinh nghiệm của con người để chơi, nên một số nước đi của nó được đánh giá là sáng tạo hơn cả người. Và nếu trong tương lai những dạng trí tuệ nhân tạo khác cũng làm được điều này thì sao, khi mà chúng không bị phụ thuộc vào suy nghĩ lối mòn của con người, mà có thể tự mình đưa ra những ý tưởng hoàn toàn mới?

Ở thời điểm hiện tại thì giả thuyết trên vẫn chưa xảy ra. Các mô hình trí tuệ nhân tạo như ChatGPT vẫn còn đang dừng ở việc thu thập và xử lý thông tin cơ bản, và vì thông tin nạp vô có thể đúng sai lẫn lộn, nên rất khó đảm bảo tính chính xác của nội dung được ChatGPT cho ra.

Tuy nhiên, đây chỉ là phiên bản rất sơ khai, và với tốc độ phát triển của công nghệ, rất có thể trong tương lai những con bot AI này hoàn toàn có khả năng tự học, tự hiệu chỉnh, và tự sáng tạo như Alpha Zero. Sáng tạo, một khả năng trước giờ chỉ duy nhất con người sở hữu, rất có thể sẽ bị chia sẻ và thậm chí lép vế trước máy tính.

Tự động hóa đã thay thế rất nhiều công việc tay chân trong quá khứ và sẽ tiếp tục thay thế nhiều việc hơn trong tương lại, thế nhưng sự thay thế này vẫn cho phép một lực lượng nhân sự mất việc có thời gian để đào tạo bản thân làm những việc nhiều chất xám hơn. Tuy nhiên, nếu ngay cả những công việc cần nhiều chất xám và khả năng sáng tạo cũng có thể được đáp ứng tốt hơn với tốc độ nhanh hơn bởi AI thì sao?

Khả năng cao các công việc mới trong tương lai sẽ vẫn cần đến con người để phối hợp với trí tuệ nhân tạo, thế nhưng liệu số lượng công việc sinh ra đó có bù đắp đủ nhanh cho lượng việc mất đi do bị thay thế bởi năng suất của máy tính không? Và liệu rằng mọi người đều có đủ năng lực để nâng cấp bản thân nhằm theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ không? Đây là vài vấn đề mà tác giả nêu lên trong quyển sách để mọi người cùng suy nghĩ.

Và điều đáng sợ hơn cả có lẽ là một thế giới mà chúng ta sẽ có “thông minh nhân tạo” và “ngu dốt tự nhiên”. Nhiều người nói rằng những việc máy tính làm là những thứ đơn giản, để con người có thời gian giải quyết những vấn đề phức tạp hơn. Nhưng theo mình, chúng ta chỉ có thể xây dựng tư duy phân tích phức tạp chỉ khi có một lượng kiến thức nền đủ vững vàng. Nếu không chú ý, chúng ta rất có thể sẽ tự huấn luyện mình trở nên lệ thuộc vào các hệ thống máy tính và tự làm thui chột đi chính trí tuệ thật sự của mình. Có lẽ đây mới chính là cái bẫy lớn nhất của trí tuệ nhân tạo, bởi nó có thể âm thầm biến “nô lệ” trở thành “ông chủ” lúc nào không hay.

Một vấn đề cũng khác cũng rất đáng quan tâm mà tác giả nêu ra trong cuốn sách, là vấn đề về bình đẳng và quyền sở hữu dữ liệu.

Trí tuệ nhân tạo có được khả năng “thông minh” như hiện tại, vì nó đang xử lý một lượng lớn dữ liệu được thu thập trên không gian mạng. Tuy nhiên, đâu là giới hạn cho những thông tin được phép truy cập bởi AI, ai sẽ sở hữu dữ liệu này, và chúng ta sẽ chấp nhận đánh đổi những gì để có được lợi ích mà AI mang lại? Tuy chỉ mới ở giai đoạn bình minh của AI, nhưng hiện nay đã có khá nhiều tranh cãi liên quan đến việc đạo nhái và bản quyền trong thông tin mà AI cung cấp.

Một số người ủng hộ thì cho rằng AI cũng đang làm điều mà con người chúng ta bấy lâu nay vẫn làm, là cóp nhặt, tổng hợp rồi sáng tạo, chỉ là ở một tốc độ nhanh hơn và quy mô rộng hơn. Một số người khác thì không cho rằng những gì AI đưa ra có thể được xem là sáng tạo, mà coi đây là những cỗ máy đạo nhái vô hồn không có ý thức, thế nên những tác phẩm chúng tạo ra không có giá trị nội tại gì đáng để thưởng thức.  

Điều nay khiến mình nhớ đến cuốn Homo Deus trước đó của tác giả. Trong đó, tác giả có nhắc đến một câu hỏi lớn, mà mình cho rằng sẽ là yếu tố then chốt để chúng ta có thể định hướng việc sử dụng AI trong thời gian sắp tới này. Câu hỏi đó chính là:

Cái gì quan trọng hơn – trí tuệ hay ý thức?

Tuy rằng mọi thứ chưa quá rõ ràng, nhưng mình đang có sự cảm nhận nhất định về việc xã hội này đang đi theo hướng đề cao trí tuệ, kết quả, năng suất, hơn là chấp nhận những khiếm khuyết do sự giới hạn của con người có ý thức tạo ra. Mọi người đang muốn một bức tranh đẹp, chứ không nhất thiết là một bức tranh do con người sáng tác.

Ở thời điểm hiện tại, vì sự tiếp cận của AI theo mình vẫn còn rất nhiều giới hạn, nên những tranh luận trên dường như chỉ nằm ở phạm vi trà dư tửu hậu. Tuy nhiên, khi những kết quả mà AI đưa ra đang càng lúc càng hoàn thiện, thậm chí vượt xa con người, và nó sẽ ảnh hưởng đến công ăn việc làm của một bộ phận dân số đông đảo, thì những vấn đề trên có lẽ sẽ cần được nghiêm túc xem xét.

Ở một chiều hướng khác, sẽ vẫn có rất nhiều người được hưởng lợi từ trí tuệ nhân tạo, và họ cho rằng ai không trau dồi được kỹ năng sử dụng AI cho công việc của mình thì đành chịu bị đào thải. Có lẽ xã hội này rồi sẽ vận hành như vậy, suy cho cùng quy luật đào thải không tha cho bất cứ sinh vật nào không thích nghi được.

Tuy nhiên, nếu trước kia việc san lấp những bất bình đẳng trong xã hội có thể là một tương lai mà mọi người cùng kỳ vọng, chỉ cần mọi người nỗ lực làm việc chăm chỉ, thì nay nó càng ngày càng gần với một ảo ảnh chỉ có ở những người được sinh ra với điều kiện tương đối thoải mái. Còn với một phần đông dân số hiện đang sống trong nghèo khổ, kết quả của những bất công trong quá khứ, thì sự trỗi dậy của AI, có lẽ sẽ càng khiến cho giá trị kinh tế của họ ngày một thấp đi.

Điều mình quan tâm là, với những người không đủ năng lực cạnh tranh bị bỏ lại phía sau, liệu rằng các chính phủ sẽ có đủ nguồn lực để lo cho họ không? Làm thế nào để họ có thể đảm bảo một cuộc sống ổn định cho mình, khi mà công nghệ tự động hóa, kết hợp cùng trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học sẽ giải quyết rất nhiều bài toán cần sự lao động trực tiếp của con người.

Một trong những hướng giải quyết khả dĩ mà tác giả có nhắc đến trong quyển sách, đó là việc các chính phủ cung cấp thu nhập cơ bản phổ quát (UBI) hay dịch vụ cơ bản phổ quát (UBS) cho người dân. Lý thuyết này không mới, nhưng việc áp dụng nó trong thực tế như thế nào hiện vẫn còn rất nhiều vấn đề để cân nhắc, như là nguồn lực thực hiện điều này sẽ đến từ đâu và những tác động không tích cực của nó. Có thể lúc này, khi công việc vẫn còn tương đối có đủ cho phần lớn người trong độ tuổi lao động thì các vấn đề về UBI hay UBS cũng chưa thực sự quá cấp bách. Nhưng mình cho rằng đây sẽ là những vấn đề sớm được tranh luận nghiêm túc bởi ảnh hưởng của tốc độ phát triển AI trong tương lai.

Ở trên là suy nghĩ của mình về một vài điểm trong cuốn sách để lại cho mình nhiều ấn tượng nhất. Có lẽ vì mình đọc quyển sách này cũng cùng vào thời điểm mà các cuộc thảo luận về ChatGPT đang trở nên cực kỳ nóng sốt, nên bản thân không khỏi có nhiều liên tưởng hơn về chủ đề này.

Tuy nhiên, đây chỉ là một trong nhiều vấn đề xã hội khác mà tác giả đề cập đến. Một vài chủ đề khác mà mình thấy rất hay và đáng quan tâm có thể kể đến: bài toán nhập cư, phân biệt văn hóa, cái giá của sự thật, và sự khó khăn trong việc xác định công lý trong chuỗi hoạt động của loài người. Vẫn với lối viết văn cực kỳ cuốn hút mang chút trào phúng, tác giả cung cấp cho người đọc phông nền kiến thức cơ bản cùng một số góc nhìn để chúng ta tiếp tục có thể suy ngẫm và có nhiều cuộc thảo luận giá trị hơn trong thời gian sắp tới. Tiếp nối SapiensHomo Deus, 21 bài học cho thế kỷ 21 chắc chắn là một cuốn sách đáng đọc để chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về vai trò và trách nhiệm của con người trên thế giới này.

Một số bài viết và video mình có đọc qua và thấy khá hay nếu bạn nào có hứng thú tìm hiểu thêm về AI và chính sách UBI.

What are the next challenges for AI

[Review] Phim: Where The Crawdads Sing

Where The Crawdads Sing - Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát

Thật sự hiếm khi có một bộ phim nào khiến mình muốn ra rạp xem đến tận hai lần, nhưng Where The Crawdads Sing đã làm được điều đó. Chẳng có kỹ xảo hoành tráng, cốt truyện xoắn não, hay diễn viên hạng A nổi tiếng, bộ phim Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát chinh phục mình bởi những thước phim đậm chất thơ và một câu chuyện tưởng như nhẹ nhàng nhưng lại ẩn chứa rất nhiều khắc khoải và suy tư.

Có lẽ vì gu của mình hay do duyên mà những bộ phim mà mình cảm thấy hứng thú đa phần là phim chuyển thể từ sách, và lần này lại cũng đúng như vậy. Mình đã rất bất ngờ khi phát hiện ra rằng bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết bán chạy cùng tên của nhà văn Delia Owens. Đấy có lẽ cũng là lí do mà những lời dẫn phim dường như toát ra một vẻ đẹp rất tinh tế và gợi cảm hiếm thấy.   

 “Being completely alone was a feeling so vast it echoed.”

 “Within all the words of biology, I searched for an explanation of why a mother would leave her offspring.”

Đi kèm với ngôn từ nặng ký là những thước phim chậm rãi mượt mà với góc quay đẹp đến xiêu lòng. Khung cảnh vùng đầm lầy thị trấn Barkley Cove (được quay thực tế tại Louisiana) hiện lên căng tràn sức sống theo một cách vừa trong sáng thơ mộng lại có phần bí ẩn hoang dã. Những tán lá xanh mướt, những thân cây phủ rêu, bãi sậy và con nước chảy ngút ngàn tầm mắt, …tất cả hòa quyện tạo nên bức tranh thiên nhiên nguyên sơ quyến rũ một cách khó cưỡng.

Có thể nói, vẻ đẹp của những cảnh quay thiên nhiên chính là một trong những điểm hút hồn mình nhất ở bộ phim. Tuy nhiên, điều khiến mình càng thích thú hơn nữa, chính là việc thiên nhiên không chỉ đơn thuần dừng ở vai trò làm nền cho các cảnh quay, mà nó còn ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với câu chuyện trưởng thành của nhân vật chính.

Kya, nhân vật chính của bộ phim, đã gắn bó cả cuộc đời cô với căn nhà gỗ ẩn mình trong khu đầm lầy ngập nước, tách biệt với phần hiện đại phồn hoa của thị trấn. Mặc dù chịu rất nhiều tổn thương, từ tuổi thơ bất hạnh phải sống với người cha bạo hành và bị bỏ lại, cho đến chuyện tình yêu tan vỡ và lòng tin bị phản bội, Kya vẫn giữ được khát vọng sống kiên cường, bền bỉ như chính thiên nhiên nơi cô sống. Sự say mê của cô với thế giới tự nhiên đã giúp cô vượt qua những ngày tháng cô đơn một mình, từng chút từng chút giúp cô xoa dịu nỗi đau, và cho phép cô giải phóng bản thân một cách tuyệt đối.

Theo đó, cô đã thành công thoát khỏi chiếc vỏ kén tách biệt với xã hội mà cô đã tự bao xung quanh mình từ bé. Là một đứa trẻ nghèo khó bị cha mẹ bỏ rơi, lại sống ẩn dật nơi đầm lầy, Kya không khỏi đối mặt với sự khinh khi xa lánh của người dân thành thị. Ấn tượng bị trêu ghẹo ngay ngày đầu đến trường lại càng khiến cô thu mình và tránh né tiếp xúc mọi người. Tuy nhiên, thế giới tự nhiên lại trở thành người thầy, người bạn của cô, đem đến cho cô nguồn tư liệu dồi dào để cô thỏa sức khám phá, từ đó giúp cô có được cơ hội để một lần nữa bước ra ngoài kết giao và nhận được sự tôn trọng từ người khác.

Nhưng sự giải phóng chân chính nhất có lẽ đến từ việc cô đã không ngần ngại phá bỏ những quan niệm cố hữu về thiện ác để giành quyền được sống cho chính mình. Mặc dù cho đến cuối cùng cái chết của Chase trên lý thuyết vẫn là một ẩn số, nhưng nó thật sự khiến mình suy nghĩ khá nhiều về những lằn ranh đạo đức. Kẻ giết người thì phải bị trừng phạt, điều này thoạt nghe rất đúng, nhưng liệu rằng chúng ta có thể trách Kya không nếu cô thật sự làm chuyện đó, sau khi chứng kiến tất cả những gì cô phải trải qua? Suy cho cùng, không có thiện ác trong thế giới tự nhiên và con mồi hoặc là chờ chết hoặc là chiến đấu để tồn tại. Đây là bài học mà tự nhiên dạy cho Kya, và mặc dù thật khó chấp nhận nếu cô dùng lý do đó để hạ sát Chase, nhưng có lẽ chỉ có cách đó cô mới có thể sống tự do mà không phải lúc nào cũng phập phồng sợ hãi.

Cái hay của bộ phim theo mình cũng nằm ở việc chúng ta cuối cùng cũng không biết được chính xác chuyện gì đã xảy ra vào đêm Chase chết. Kya chắc chắn có liên quan, nhưng không nhất thiết là kẻ giết người. Vậy chúng ta muốn làm rõ sự thật, hay cứ nên tin vào điều chúng ta muốn tin, rằng Kya vô tội và mọi thứ chỉ là tai nạn? Nó khiến mình chợt giật mình nhận ra bản thân mình cũng đầy tiêu chuẩn kép, vừa muốn công bằng, lại cũng muốn mọi thứ để ngỏ như vậy vì lỡ như sự thật không như mình mong muốn thì sao. Bộ phim khép lại để cho mình nhiều suy nghĩ, về thước đo đạo đức đúng sai, về cách cảm xúc chi phối góc nhìn của ta trước một sự việc.

Bên cạnh mặt nội dung, một điểm nữa cũng rất đáng khen về phim là việc giữ được nhịp điệu phim rất ổn định từ đầu đến cuối, mặc dù phải cân bằng cả hai dòng thời gian đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Có rất nhiều bộ phim xây dựng bối cảnh rất hay nhưng kết phim lại bị đẩy gấp gáp khiến người xem bị hẫng. Thế nhưng ở bộ phim này mình cảm thấy mọi phân cảnh đều rất vừa vặn, đủ chậm để người xem cảm cùng nhân vật, nhưng không bị lê thê không cần thiết.

Và mặc dù bộ phim được bắt đầu từ một vụ án mạng cũng như những đoạn ký ức tuổi thơ khá nặng lòng, rất may mắn là những phân đoạn tình cảm giữa Kya và Tate đủ tươi sáng và ấm áp để khiến không khí trong phim được cân bằng lại. Cá nhân mình thích những bộ phim đem lại cho mình cảm giác hy vọng, có thể buồn nhưng không quá u ám, nên bộ phim này vừa hay lại rất hợp gu của mình.

Vì chưa đọc qua tiểu thuyết gốc nên mình không thể nói là bộ phim đã truyền tải được tác phẩm chưa, thế nhưng chỉ dựa trên những gì được thể hiện trên màn ảnh thì mình nghĩ bô phim đã kể được một câu chuyện rất trọn vẹn và cuốn hút người xem từ đầu đến cuối. Các diễn viên đều đóng khá tròn vai, đặc biệt là nữ diễn viên Daisy Edgar Jones đã rất xuất sắc thể hiện nhân vật Kya vừa dịu dàng mềm mại, vừa cứng cỏi mạnh mẽ.

Để kết lại thì mình nghĩ đây là một bộ phim được thực hiện rất chỉn chu trong tất cả các khâu, từ dàn dựng kịch bản, đến diễn xuất, quay phim. Tuy không có thông điệp gì quá to tát hay kỹ xão điện ảnh hoành tráng, nhưng bộ phim lại có vẻ đẹp bình dị và khả năng chạm đến cảm xúc người xem. Đặc biệt, với những ai trân trọng và yêu thích kết nối với thế giới tự nhiên, thì mình tin đây sẽ là một bộ phim khiến bạn có được sự mãn nhãn và đồng cảm sâu sắc.

[Review] Sách: Homo Deus – Lược Sử Tương Lai – Yuval Noah Harari

Image Source: Nhã Nam Facebook

Sau khi kết thúc Sapiens: Lược Sử Loài Người, mình tiếp tục tìm đọc cuốn Homo Deus của Harari để xem tác giả có những dự đoán thế nào tương lai nhân loại. Và mình không khỏi tiếp tục bị ấn tượng bởi cách tác giả khéo léo xâu chuỗi lượng thông tin khổng lồ để dẫn dắt người đọc đến các khả năng có thể xảy ra, đi từ những chính những gì chúng ta đã và đang làm trên thế giới này.

Không như những quyển tiểu thuyết khoa học viễn tưởng dựa trên trí tưởng tượng phong phú của con người, Harari phác thảo ra những chiều hướng tương lai hoàn toàn có cơ sở bằng cách đào sâu hơn vào những niềm tin đã giúp con người nhào nặn nên xã hội hiện tại ngày nay. Tuy là tương lai, nhưng lại được xây dựng trên quá khứ và hiện tại.

Tiếp nối phân tích của tác giả trong Sapiens về việc xã hội được xây dựng dựa trên những những “trật tự tưởng tượng”, đến với Homo Deus, tác giả lại tiếp tục khai thác sâu hơn về cách con người thay đổi quan niệm về ý nghĩa và mục đích của sự sống xuyên suốt dòng lịch sử.

Nếu ngày xưa con người chúng ta đặt niềm tin vào thần linh, vào sự thiêng liêng của linh hồn, để định hướng cuộc sống; thì ngày nay chúng ta lại xem cảm nghiệm cá nhân và quyền mưu cầu tự do hạnh phúc là nền tảng cho mọi hành động.

Các hệ thống niềm tin này được tác giả nhìn nhận như các niềm tin “tôn giáo” với đầy đủ 3 vế, bao gồm “đánh giá đạo đức, tuyên bố xác thực, và các chỉ dẫn thực tế”. Harari có những biện luận rất sắc sảo để củng cố khái niệm “tôn giáo” mở rộng này, và mình nghĩ đó là một cách diễn giải khá thuyết phục để giải thích sự vận động của xã hội.

Tôn giáo là bất cứ câu chuyện toàn diện nào gán tính hợp thức siêu phàm lên luật lệ, tiêu chuẩn, và giá trị của con người. Nó hợp thức hóa các cấu trúc xã hội của con người bằng cách biện luận rằng chúng phản ánh các luật lệ siêu phàm.

Theo đó, tôn giáo không nên chỉ được hiểu là niềm tin vào các thế lực siêu nhiên thần thánh. Nếu xét về bản chất, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cộng sản, hay thậm chí là chủ nghĩa phát xít, cũng có thể được xem là tôn giáo, bởi chúng đều đưa ra những bộ luật, tín điều mà những người tin theo xem là những luật lệ đạo đức siêu phàm. Chỉ khác là thay vì tôn thờ một đấng sáng tạo như trong đạo Chúa hay các quy luật tự nhiên như đạo Phật, thì những chủ nghĩa kia tôn thờ con người và xem các trải nghiệm của con người là điều tạo nên ý nghĩa cho vũ trụ này. 

Những ai đã từng nghiên cứu qua triết học có lẽ sẽ không quá xa lạ với tiến trình phát triển của các tư tưởng này, đặc biệt là về sự lên ngôi của chủ nghĩa nhân văn, khởi nguồn từ thế kỷ 19 và thống lĩnh cho đến tận nay.  Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở phạm trù triết học, Harari còn chỉ ra cho chúng ta thấy sự tương quan sâu sắc giữa các hệ thống niềm tin “tôn giáo” ấy và ảnh hưởng của chúng lên mọi mặt của đời sống, từ khoa học, nghệ thuật đến kinh tế, chính trị.

Trong đó, mình đặc biệt ấn tượng với phân tích của tác giả về quan hệ giữa khoa học và tôn giáo, và đây gần như là chìa khóa mấu chốt để xây dựng nên những dự đoán cho tương lai.

Theo tác giả, khoa học không thể đứng một mình mà không có sự hậu thuẫn của một tôn giáo, bởi bản thân khoa học không thể tự quyết định những ứng dụng của nó sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Ở thời hiện đại ngày nay, hầu như các phát minh khoa học đều hướng đến mục đích tối cao là gia tăng hạnh phúc và giảm thiểu đau khổ cho con người. Thế nhưng nếu vào một ngày nào đó, chúng ta không còn xem con người là trung tâm vũ trụ, và sự tồn tại của chúng ta trên thế giới này vốn chỉ để phát triển một dạng sự sống mới nào khác ưu việt hơn thì sao? Có thể điều này nghe rất giống phim viễn tưởng, nhưng lịch sự đã cho ta thấy xã hội loài người chúng ta hoàn toàn có khả năng thay đổi hệ thống niềm tin của mình, và theo đó thì ưu tiên phục vụ của khoa học cũng sẽ khác đi.

Ngoài ra, khoa học có thể nói tự bản thân nó là một lực lượng rất khó kiểm soát, bởi nó luôn tìm cách thoát ra khỏi mọi quy chuẩn để có được quyền lực khống chế và cải biến mọi thứ. Và trong hành trình phát triển tự nhiên của mình, khoa học có thể sẽ tìm ra những thông tin mới khiến cho toàn bộ hệ thống niềm tin trước đây của chúng ta sụp đổ.

Trong đó, ngành khoa học về não bộ và nhận thức đang đặc biệt đưa ra cho chúng ta rất nhiều câu hỏi về mặt đạo đức và thách thức niềm tin truyền thống của rất nhiều người. Một ví dụ đơn cử là về ý chí tự do. Chúng ta có ý chí tự do hay không? Chắc hẳn nhiều người sẽ cho là có, bởi chúng ta có toàn quyền lựa chọn làm điều mình mong muốn mà. Nhưng liệu chúng ta có thực sự được tự do lựa chọn là mình sẽ có loại mong muốn nào không? Hay các mong muốn và suy nghĩ của chúng ta, thực sự đã được định đoạt trước bởi sự kết hợp các chất nào đó trong não bộ.

Trên thực tế, đã có rất nhiều những thí nghiệm đang chứng minh cho chúng ta thấy những cảm xúc, suy nghĩ hay mong muốn gì đó của chúng ta hoàn toàn chỉ là kết quả của các phản ứng sinh hóa trong não bộ. Và điều này có nghĩa là chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát các ham muốn hay niềm tin của chúng ta bằng các can thiệp bên ngoài. Thế rồi nếu có một trí tuệ nhân tạo nào đó còn biết rõ chúng ta cần gì và điều gì tốt hơn chúng ta thì sao, liệu rằng chúng ta có nên trao cho nó quyền năng sửa đổi suy nghĩ của chúng ta luôn không?

Trên là một trong những viễn cảnh về thế giới tương lai mà tác giả cho rằng có khả năng xảy ra, trong đó con người sẽ được công nghệ hỗ trợ vượt trội hơn để có những năng lực siêu phàm thần thánh. Thế nhưng một “con người” được gắn chip vào, được cải tạo theo đúng yêu cầu, liệu có thật sự còn là “con người” mà chúng ta đang biết hay không? Đâu là ranh giới cho những nghiên cứu khoa học này, để những thứ mà chúng ta coi là phát minh tiên tiến không trở thành thảm họa khiến con người diệt vong?

Cá nhân mình cho rằng, viễn cảnh này khó có khả năng xảy ra, vì có lẽ cái tôi cá nhân của loài người vẫn sẽ rất lớn và không chấp nhận nằm dưới sự kiểm soát của một loại máy móc nào, trừ phi toàn bộ chúng ta đều không ý thức được mình đang bị kiểm soát.

Hơn nữa, mình cho rằng cuộc sống này chỉ có ý nghĩa thực sự khi ta được thể nghiệm đầy đủ các cung bậc cảm xúc từ đau khổ đến hạnh phúc, và tìm được sự an yên trong cả trong những lúc khó khăn. Với mình, việc chấp nhận các bất toàn trong cuộc sống và học cách buông bỏ bản ngã mới chính là cảnh giới cao nhất cần hướng đến. Một liều thuốc hay máy móc nào đó giúp ta luôn sống trong trạng thái lâng lâng hạnh phúc hoặc làm ta trở nên giỏi giang vượt trội thực chất chỉ là một dạng gây nghiện cấp cao.

Cũng có thể trong tương lai, con người sẽ không còn tìm thấy giá trị gì trong các trải nghiệm cá nhân, hay nói cách khác, chẳng ai còn quan tâm đến ý nghĩa rời rạc mà mỗi cá thể cảm nhận nữa. Câu hỏi đặt ra là, khi mà con người tin rằng cảm xúc cá nhân thực ra chỉ là các phản ứng sinh hóa và bản thân mỗi người chỉ là một cỗ máy di động, thì động lực để chúng ta tiếp tục tồn tại là ở đâu?

Theo đó, tác giả cho rằng một hệ tư tưởng mới sẽ có thể xuất hiện trong tương lai là “dữ liệu giáo”. Con người sẽ coi dòng chảy dữ liệu là mục đích tối thượng của sự sống, và chúng ta sẽ trao quyền cho các thuật toán thông minh để tổ chức sắp xếp các mặt của cuộc sống. Trước mắt, chúng ta có thể cảm nhận sự manh nha của tôn giáo này, thể hiện qua sự mê say đến mức sùng bái của nhiều người với các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, big data, … Dữ liệu thay vì là công cụ, có khi sẽ tiến hóa để trở thành ông chủ của chính người tạo ra nó. Việc dữ liệu giáo có thể thống trị trong tương lai hay không thì vẫn còn rất khó nói, nhưng chỉ riêng việc đưa ra những tiền đề này để chúng ta tiếp tục suy nghĩ thêm đã là một cái hay của tác giả Homo Deus.

Cuốn sách này lần theo các nguồn gốc của những lập trình mà chúng ta chịu ảnh hưởng ngày nay để nới lỏng tay nắm của nó và cho phép chúng ta hành động khác đi, đồng thời cho phép trí tưởng tượng về tương lai của chúng ta tự do bay bổng. Thay vì bó hẹp chân trời của chúng ta bằng cách dự báo một viễn cảnh tuyệt đối duy nhất, cuốn sách hướng tới mở rộng chân trời của chúng ta và khiến ta ý thức được một dải các lựa chọn rộng hơn nhiều.

Đối với mình, Homo Deus là một buổi tiệc chiêu đãi kiến thức thật thịnh soạn, lại càng thêm thi vị bởi rất nhiều những suy ngẫm triết học. Quyển sách không đơn thuần nói về lịch sử hay tương lai bằng các sự kiện hay số liệu khô khan, mà xoáy sâu vào những động lực đằng sau cách con người suy nghĩ và vận hành thế giới. Chúng ta tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống mình ở đâu? – Đó mãi là một câu hỏi mà mỗi cá nhân cần chiêm nghiệm và tự tìm câu trả lời, bởi nó sẽ gián tiếp định hình sự phát triển chung của xã hội loài người. Khép lại quyển sách, tác giả để lại cho chúng ta ba câu hỏi lớn rất thú vị, mình xin trích lại đây để chúng ta cùng suy nghĩ:

Liệu sinh vật có thật chỉ là các thuật toán không, và liệu sự sống có thật chỉ là quá trình xử lý dữ liệu không?

Cái gì quan trọng hơn – trí tuệ hay ý thức?

Điều gì sẽ xảy ra với xã hội, chính trị, và đời sống hằng ngày khi các thuật toán phi ý thức nhưng trí tuệ cao biết ta rõ hơn ta biết chính mình?

[Review] Factfulness – Sự thật về thế giới – Hans Rosling

Mười lý do khiến ta hiểu sai về thế giới – và vì sao thế gian này tốt hơn ta tưởng

Factfulness – Sự Thật về Thế Giới

Trong một thế giới ngày như càng nặng nề và u ám hơn bởi dịch bệnh hoành hành, căng thẳng chính trị, bất ổn kinh tế, nạn tin giả tràn lan và mọi người ngày càng có xu hướng phân cực trong mọi hệ tư tưởng, thì quyển sách Factfulness của tác giả Hans Rosling thật sự là một tia sáng quý giá của sự thật.

Hơn lúc nào hết, tôi cảm thấy đây là một quyển sách nên được tất cả mọi người tìm đọc và chiêm nghiệm trong thời điểm này để có một cái nhìn cảm thông và khách quan hơn về thế giới và xã hội xung quanh. Ngày nay, với sự bùng nổ của internet và mạng xã hội với đủ các thể loại tin tức trái chiều giật gân, thật sự rất khó để bất cứ ai trong chúng ta có thể tự tin rằng mình sẽ luôn giữ được sự tỉnh táo để xem xét mọi khía cạnh của vấn đề, thay vì nhảy ngay đến những kết luận mang tính quy chụp và phiến diện. Hơn nữa, khi mà bộ não chúng ta luôn bị thu hút hơn bởi những thông tin mang tính khẩn cấp hay bi kịch, theo thời gian, nếu không cẩn thận chúng ta sẽ dễ hình thành những thế giới quan méo mó và tiêu cực hơn so với thực tế.

Đọc tiếp “[Review] Factfulness – Sự thật về thế giới – Hans Rosling”

[Review] Sách: The Innovation Stack – Jim McKelvey

Maps are for tourists, not explorers

The Innovation Stack là một quyển sách về khởi nghiệp khá hay với nhiều góc nhìn và chiêm nghiệm đắt giá, được viết bởi Jim McKelvey – người đồng sáng lập công ty Square cùng với Jack Dorsey (Square là công ty chế tạo phần mềm và thiết bị đọc thẻ tín dụng cỡ nhỏ ở Mỹ từ năm 2009, ở Việt Nam thì có thể chưa nhiều người biết đến thiết bị này vì giao dịch bằng thẻ tín dụng trực tiếp ở Việt Nam còn khá thấp). Cũng chính vì sách được viết bởi đích thân người đã trải nghiệm quá trình khởi nghiệp, nên người đọc có thể cảm nhận một sự chân thực, gần gũi và lôi cuốn rất riêng, điều hơi hiếm thấy các quyển sách kinh doanh khác được viết từ góc nhìn của người ngoài cuộc.

Thoát ra khỏi mô phạm thường thấy của những quyển sách về kinh doanh, quyển sách này được viết ra không phải để hướng dẫn mọi người cách khởi nghiệp hay đưa ra các công thức thành công. Thay vào đó, tác giả muốn cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về các cơ chế đã cho phép sự sáng tạo đột phá trong khởi nghiệp ra đời.

Đọc tiếp “[Review] Sách: The Innovation Stack – Jim McKelvey”