[Review] Sách: Những tù nhân của địa lý – Tim Marshall

Gần đây, khi cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraina nổ ra, có một từ khóa mà mình bỗng nhiên lại nghe nhắc tới với tần suất nhiều hơn hẳn, đó là từ “địa chính trị”.  Vẫn biết địa lý đóng vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia và là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh xâm lược trong quá khứ, nhưng ở thời kỳ tương đối hòa bình hiện tại, khi mà hợp tác quốc tế dường như là xu hướng tất yếu, mình đã phần nào nghĩ rằng địa lý không còn là một rào cản quá lớn giữa các nước. Những căng thẳng đối đầu khi xưa có thể sẽ được dàn xếp để ưu tiên lợi ích kinh tế thương mại.

Thế nhưng có vẻ đó là một suy nghĩ có phần ngây thơ, bởi khi đọc quyển “Những tù nhân của địa lý” của Tim Marshall, một phóng viên và nhà báo người Anh, mình nhận ra rằng có lẽ các lãnh đạo quốc gia sẽ còn mất một thời gian rất dài để thoát khỏi “nhà ngục địa lý” đã hằn sâu trong tâm trí họ. Những đường biên giới và lãnh thổ ngày nay dù cho được hình thành bởi tự nhiên hay nhân tạo, tất cả đều được đổi bằng máu của biết bao thế hệ, sẽ tiếp tục tác động lên các chính sách đối ngoại của các nước.

Bản thân mình trước giờ khi nghĩ về địa lý thường chỉ nhớ đến các yếu tố như khí hậu, cảnh quan, hoặc các tài nguyên phục vụ mục đích kinh tế, chứ không nghĩ nhiều đến tính chiến lược của vị trí mỗi quốc gia trong tương quan với các nước khác. Phải thú thật là, có lẽ quốc gia duy nhất mà mình nắm được tương đối giá trị của địa lý với quân sự hay thương mại cho tới giờ chỉ có mỗi Việt Nam, quê hương của mình. Mãi đến khi đọc cuốn sách này, mình mới nhận thức được rõ nét hơn về cách địa lý đã và đang tác động lên quan hệ quốc tế của các nước, cũng như có một kiến thức nền tốt hơn để hiểu các tin thời sự đang diễn ra mà trước đây mình khá mù mờ.

Quyển sách được tác giả bố cục thành 10 chương, cũng là 10 vùng địa lý mà tác giả đi vào chi tiết, bao gồm: Nga, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Tây Âu, Châu Phi, Trung Đông, Ấn Độ và Pakistan, Triều Tiên và Nhật Bản, Châu Mỹ Latin, Bắc Cực. Ở mỗi chương, tác giả luận giải việc các kiến tạo tự nhiên giúp một quốc gia đạt được sức mạnh về kinh tế hay quân sự thế nào, chia cắt các sắc tộc ra sao, tạo nên các hàng rào phòng thủ tự nhiên hay đòi hỏi các biện pháp vũ trang cứng rắn.

Việc tác giả bắt đầu cuốn sách với chương về Nga có thể nói là một sự trùng hợp rất thú vị bởi ở thời điểm hiện tại khi mà cuộc chiến giữa Nga và Ukraine vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại, nó giúp mình nhận thức được rõ hơn bao giờ cái mà tác giả gọi là “tù nhân của địa lý”. Việc đất nước này thiếu một cảng nước ấm kết nối tự do ra các đại dương mà không bị đóng băng vào mùa đông, cũng như vùng biên giới bằng phẳng dễ công khó thủ của Nga ở đồng bằng Bắc Âu, luôn mãi là hai yếu điểm tự nhiên làm ám ảnh biết bao thế hệ lãnh đạo của đất nước này, từ Đại Công quốc Muscovy, qua thời Peter Đại Đế, đến Stalin và Putin. Để phần nào khắc phục điều này, Nga đã đánh đổi rất nhiều, bao gồm việc chiếm lại Crimea để xây dựng hạm đội hải quân tại cảng Sevastopol cũng như chi phối các đảng phái chính trị để giữ Ukraine là một nước trung lập không thuộc NATO nhằm duy trì vùng đệm phòng thủ cho mình.

Có thể với một người dân bình thường như mình, việc Ukraine có muốn gia nhập NATO hay không là chuyện của họ và chúng ta nên tôn trọng điều đó. Thế nhưng đối với một lãnh đạo như Putin, đây có thể ví như việc kẻ thù đang đem vũ khí đến sát cửa và có thể đe dọa an toàn lãnh thổ của Nga bất cứ lúc nào. Bỏ qua tất cả những lợi ích mà hòa bình mang lại cho kinh tế của Nga, bất chấp các quyết định trừng phạt quốc tế, Putin vẫn phát động chiến tranh để ép Ukraine từ bỏ ý định này. Putin có thể có lựa chọn khác đi không? Sẽ có nhiều người cho rằng chính vì địa lý của Nga mà Putin buộc phải tấn công như vậy, ông chỉ đang chơi ván bài mà tự nhiên đã sắp xếp cho Nga, và đó chính xác là “nhà tù” mà tác giả nói tới. Rất khó để những nhà lãnh đạo của một nước tin rằng những đường biên giới của họ sẽ luôn được bảo hộ an toàn, cũng như không ai muốn bị đặt vào thế bị động trong quận sự, và ngay cả sự hội nhập toàn cầu hóa cũng sẽ không xóa nhòa đi được những song tù tâm lý vô hình này.

Tương tự như vậy, Trung Quốc dù có nền kinh tế hợp tác chặt chẽ với Mỹ, nhưng về mặt chính trị hay quân sự, nước này luôn e ngại việc các hạm đội của mình bị cô lập khi đi ngang vùng biển Nhật Bản và eo biển Malacca, vốn được kiểm soát bởi các nước thân cận với Mỹ. Điều này dẫn đến việc họ không ngừng tìm kiếm một con đường khác để tiếp cận đại dương một cách tự do hơn, như là thuê cảng nước sâu tại Gwadar, Pakistan và cố gắng thiết lập tuyến đường bộ dẫn thẳng đến Trung Quốc, hay như việc xây dựng các đường ống dẫn khí và dầu mỏ nối trực tiếp đến vịnh Bengal thông qua Miến Điện. Và cũng như việc Nga muốn kiểm soát Ukraine, Trung Quốc kiên quyết muốn kiểm soát Tây Tạng để tạo ra một vùng đệm biên giới an toàn trước Ấn Độ, đồng thời đảm bảo thượng nguồn của ba con sông lớn của Trung Quốc sẽ không bị nước nào khác khống chế. Để đạt được mức độ phòng thủ cao nhất và giảm thiếu những hạn chế về mặt vị trí địa lý tự nhiên, các lãnh đạo Trung Quốc sẽ không ngừng thực hiện các chính sách đối ngoại vừa hợp tác vừa gây sức ép lên các nước lân cận, đồng thời dùng quyền lực mềm để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế.

Chương sách về Châu Phi và Trung Đông khắc họa hoàn cảnh của những quốc gia bị cầm tù trong không gian địa lý vừa do bàn tay tự nhiên sắp đặt, vừa do lịch sử nhào nặn. Quyển sách chỉ ra rất nhiều xung đột ở khu vực này thực chất là kết quả của sự vô trách nhiệm trong quá khứ khi các nước thực dân đã vạch ra những đường biên giới nhân tạo mà không hề có chút trân trọng với lịch sử và văn hóa người dân địa phương, để lại hậu quả là những cuộc chiến tranh sắc tộc dai dẳng đến tận ngày nay. Bản thân địa lý của những khu vực này đã hạn chế giao thương và tách biệt các dân tộc với nhau, việc tùy tiện cưỡng ép họ hợp thành các quốc gia dân tộc, vốn đòi hỏi một căn tính quốc gia thống nhất, chỉ làm trầm trọng thêm các vấn đề bạo lực diễn ra ở đây. Tuy vậy, rất may mắn là về mặt kinh tế, các quốc gia ở đây đang có những bước tiến mới nhờ tận dụng được lợi thế tài nguyên khoáng sản và đang sử dụng công nghệ để khắc phục những bất lợi mà tự nhiên an bài trước đây, như là tạo nên những cảng biển nước sâu và các ốc đảo bao quanh bởi sa mạc.

Ở vị trí ngược lại, các nước ở châu Âu được hưởng lợi rất nhiều về mặt địa lý tự nhiên, cho phép sự thông thương và phát triển kinh tế vượt trội, trở thành những nước cường quốc có điều kiện mở rộng phạm vi của mình khắp thế giới. Đây là những nước đi đầu trong lý tưởng về một thế giới phẳng hơn, nơi mà các nước có cùng những giá trị dân chủ và nhân quyền sẽ có thể hợp tác với nhau khăng khít hơn thông qua những chính sách kinh tế, đối ngoại và quân sự chung. Tuy nhiên, khi phải đứng trước các thách thức thực tiễn về việc các nước giàu phải giúp đỡ các nước nghèo hơn, hoặc về việc đón nhận các dòng người nhập cư hay tị nạn từ Trung Đông và châu Phi, mối dây liên kết giữa các nước EU lại có dấu hiệu tan rã, và các nước lại quay về cố thủ trong những đường biên giới của mình. Có lẽ đúng như tác giả nhận định, “địa lý cho chúng ta biết rằng nếu con người không liên tục cố chiến thắng các ‘quy luật’ của nó, thì những ‘quy luật’ ấy sẽ chiến thắng con người”, “đến lúc đó, chúng ta sẽ quay trở lại với một châu Âu với những quốc gia có chủ quyền, với việc mỗi một nhà nước đều tìm kiếm đồng minh trong một thế cân bằng của hệ thống quyền lực”.

Tuy nhiên, mình không nghĩ mục đích của tác khi viết quyển sách này là để nói rằng số phận các quốc gia là tất định, hay để tán đồng với các chính sách đối ngoại của lãnh đạo các nước dựa trên lý thuyết của địa chính trị. Thay vào đó, tác giả muốn chúng ta có một khung nền kiến thức bao quát để lý giải được những sự kiện đã và đang diễn ra trên thế giới, nhằm có những cuộc thảo luận chất lượng hơn về tương lai của loài người nói chung. Chúng ta vẫn sẽ bị giới hạn bởi môi trường, nhưng nhờ khoa học công nghệ, thế giới trong tương lai có thể sẽ được định hình bởi những mảng địa lý nhân tạo nhiều hơn bởi tự nhiên. Để rồi, khi mà con người có thể vượt lên được gông cùm tâm lý của sự sợ hãi và tham lam, cởi bỏ được sự nghi ngờ của mình đối với những “kẻ khác”, chúng ta sẽ có cơ hội thoát khỏi sự kìm hãm của địa lý để đem lại lợi ích chung cho tất cả mọi người.

Khép lại cuốn sách, mình tin rằng đây là quyển sách rất bổ ích và thú vị với những ai ít nhiều có mối quan tâm về các sự kiện thời sự đang diễn ra. Địa lý, chính trị hay lịch sử thường là những đề tài khô khan đối với số đông người đọc, thế nhưng cây bút kỳ cựu Tim Marshall đã rất khéo léo lồng nghép những chủ đề này để vẽ nên một bức tranh sinh động về mối quan hệ quốc tế giữa các nước. Đương nhiên đây cũng là những đề tài rất rộng nên những gì tác giả khai thác để viết vào sách chủ yếu mang tính chất nhập môn và khơi gợi hứng thú để người đọc tiếp tục tìm hiểu thêm. Ngoài địa lý thì sự phát triển của các quốc gia còn chiu sự chi phối của hệ tư tưởng, tôn giáo, thể chế pháp luật, khác biệt sắc tộc, đây là những điều tác giả có đề cập đến nhưng theo mình chưa đi đủ sâu sát trong quyển sách. Vấn đề di dân và việc hình thành căn tính của một quốc gia dân tộc cũng là những đề tài mà mình sẽ rất hứng thú để tìm hiểu thêm sau khi đọc qua quyển sách này.   

[Review] Sách: Homo Deus – Lược Sử Tương Lai – Yuval Noah Harari

Image Source: Nhã Nam Facebook

Sau khi kết thúc Sapiens: Lược Sử Loài Người, mình tiếp tục tìm đọc cuốn Homo Deus của Harari để xem tác giả có những dự đoán thế nào tương lai nhân loại. Và mình không khỏi tiếp tục bị ấn tượng bởi cách tác giả khéo léo xâu chuỗi lượng thông tin khổng lồ để dẫn dắt người đọc đến các khả năng có thể xảy ra, đi từ những chính những gì chúng ta đã và đang làm trên thế giới này.

Không như những quyển tiểu thuyết khoa học viễn tưởng dựa trên trí tưởng tượng phong phú của con người, Harari phác thảo ra những chiều hướng tương lai hoàn toàn có cơ sở bằng cách đào sâu hơn vào những niềm tin đã giúp con người nhào nặn nên xã hội hiện tại ngày nay. Tuy là tương lai, nhưng lại được xây dựng trên quá khứ và hiện tại.

Tiếp nối phân tích của tác giả trong Sapiens về việc xã hội được xây dựng dựa trên những những “trật tự tưởng tượng”, đến với Homo Deus, tác giả lại tiếp tục khai thác sâu hơn về cách con người thay đổi quan niệm về ý nghĩa và mục đích của sự sống xuyên suốt dòng lịch sử.

Nếu ngày xưa con người chúng ta đặt niềm tin vào thần linh, vào sự thiêng liêng của linh hồn, để định hướng cuộc sống; thì ngày nay chúng ta lại xem cảm nghiệm cá nhân và quyền mưu cầu tự do hạnh phúc là nền tảng cho mọi hành động.

Các hệ thống niềm tin này được tác giả nhìn nhận như các niềm tin “tôn giáo” với đầy đủ 3 vế, bao gồm “đánh giá đạo đức, tuyên bố xác thực, và các chỉ dẫn thực tế”. Harari có những biện luận rất sắc sảo để củng cố khái niệm “tôn giáo” mở rộng này, và mình nghĩ đó là một cách diễn giải khá thuyết phục để giải thích sự vận động của xã hội.

Tôn giáo là bất cứ câu chuyện toàn diện nào gán tính hợp thức siêu phàm lên luật lệ, tiêu chuẩn, và giá trị của con người. Nó hợp thức hóa các cấu trúc xã hội của con người bằng cách biện luận rằng chúng phản ánh các luật lệ siêu phàm.

Theo đó, tôn giáo không nên chỉ được hiểu là niềm tin vào các thế lực siêu nhiên thần thánh. Nếu xét về bản chất, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cộng sản, hay thậm chí là chủ nghĩa phát xít, cũng có thể được xem là tôn giáo, bởi chúng đều đưa ra những bộ luật, tín điều mà những người tin theo xem là những luật lệ đạo đức siêu phàm. Chỉ khác là thay vì tôn thờ một đấng sáng tạo như trong đạo Chúa hay các quy luật tự nhiên như đạo Phật, thì những chủ nghĩa kia tôn thờ con người và xem các trải nghiệm của con người là điều tạo nên ý nghĩa cho vũ trụ này. 

Những ai đã từng nghiên cứu qua triết học có lẽ sẽ không quá xa lạ với tiến trình phát triển của các tư tưởng này, đặc biệt là về sự lên ngôi của chủ nghĩa nhân văn, khởi nguồn từ thế kỷ 19 và thống lĩnh cho đến tận nay.  Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở phạm trù triết học, Harari còn chỉ ra cho chúng ta thấy sự tương quan sâu sắc giữa các hệ thống niềm tin “tôn giáo” ấy và ảnh hưởng của chúng lên mọi mặt của đời sống, từ khoa học, nghệ thuật đến kinh tế, chính trị.

Trong đó, mình đặc biệt ấn tượng với phân tích của tác giả về quan hệ giữa khoa học và tôn giáo, và đây gần như là chìa khóa mấu chốt để xây dựng nên những dự đoán cho tương lai.

Theo tác giả, khoa học không thể đứng một mình mà không có sự hậu thuẫn của một tôn giáo, bởi bản thân khoa học không thể tự quyết định những ứng dụng của nó sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Ở thời hiện đại ngày nay, hầu như các phát minh khoa học đều hướng đến mục đích tối cao là gia tăng hạnh phúc và giảm thiểu đau khổ cho con người. Thế nhưng nếu vào một ngày nào đó, chúng ta không còn xem con người là trung tâm vũ trụ, và sự tồn tại của chúng ta trên thế giới này vốn chỉ để phát triển một dạng sự sống mới nào khác ưu việt hơn thì sao? Có thể điều này nghe rất giống phim viễn tưởng, nhưng lịch sự đã cho ta thấy xã hội loài người chúng ta hoàn toàn có khả năng thay đổi hệ thống niềm tin của mình, và theo đó thì ưu tiên phục vụ của khoa học cũng sẽ khác đi.

Ngoài ra, khoa học có thể nói tự bản thân nó là một lực lượng rất khó kiểm soát, bởi nó luôn tìm cách thoát ra khỏi mọi quy chuẩn để có được quyền lực khống chế và cải biến mọi thứ. Và trong hành trình phát triển tự nhiên của mình, khoa học có thể sẽ tìm ra những thông tin mới khiến cho toàn bộ hệ thống niềm tin trước đây của chúng ta sụp đổ.

Trong đó, ngành khoa học về não bộ và nhận thức đang đặc biệt đưa ra cho chúng ta rất nhiều câu hỏi về mặt đạo đức và thách thức niềm tin truyền thống của rất nhiều người. Một ví dụ đơn cử là về ý chí tự do. Chúng ta có ý chí tự do hay không? Chắc hẳn nhiều người sẽ cho là có, bởi chúng ta có toàn quyền lựa chọn làm điều mình mong muốn mà. Nhưng liệu chúng ta có thực sự được tự do lựa chọn là mình sẽ có loại mong muốn nào không? Hay các mong muốn và suy nghĩ của chúng ta, thực sự đã được định đoạt trước bởi sự kết hợp các chất nào đó trong não bộ.

Trên thực tế, đã có rất nhiều những thí nghiệm đang chứng minh cho chúng ta thấy những cảm xúc, suy nghĩ hay mong muốn gì đó của chúng ta hoàn toàn chỉ là kết quả của các phản ứng sinh hóa trong não bộ. Và điều này có nghĩa là chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát các ham muốn hay niềm tin của chúng ta bằng các can thiệp bên ngoài. Thế rồi nếu có một trí tuệ nhân tạo nào đó còn biết rõ chúng ta cần gì và điều gì tốt hơn chúng ta thì sao, liệu rằng chúng ta có nên trao cho nó quyền năng sửa đổi suy nghĩ của chúng ta luôn không?

Trên là một trong những viễn cảnh về thế giới tương lai mà tác giả cho rằng có khả năng xảy ra, trong đó con người sẽ được công nghệ hỗ trợ vượt trội hơn để có những năng lực siêu phàm thần thánh. Thế nhưng một “con người” được gắn chip vào, được cải tạo theo đúng yêu cầu, liệu có thật sự còn là “con người” mà chúng ta đang biết hay không? Đâu là ranh giới cho những nghiên cứu khoa học này, để những thứ mà chúng ta coi là phát minh tiên tiến không trở thành thảm họa khiến con người diệt vong?

Cá nhân mình cho rằng, viễn cảnh này khó có khả năng xảy ra, vì có lẽ cái tôi cá nhân của loài người vẫn sẽ rất lớn và không chấp nhận nằm dưới sự kiểm soát của một loại máy móc nào, trừ phi toàn bộ chúng ta đều không ý thức được mình đang bị kiểm soát.

Hơn nữa, mình cho rằng cuộc sống này chỉ có ý nghĩa thực sự khi ta được thể nghiệm đầy đủ các cung bậc cảm xúc từ đau khổ đến hạnh phúc, và tìm được sự an yên trong cả trong những lúc khó khăn. Với mình, việc chấp nhận các bất toàn trong cuộc sống và học cách buông bỏ bản ngã mới chính là cảnh giới cao nhất cần hướng đến. Một liều thuốc hay máy móc nào đó giúp ta luôn sống trong trạng thái lâng lâng hạnh phúc hoặc làm ta trở nên giỏi giang vượt trội thực chất chỉ là một dạng gây nghiện cấp cao.

Cũng có thể trong tương lai, con người sẽ không còn tìm thấy giá trị gì trong các trải nghiệm cá nhân, hay nói cách khác, chẳng ai còn quan tâm đến ý nghĩa rời rạc mà mỗi cá thể cảm nhận nữa. Câu hỏi đặt ra là, khi mà con người tin rằng cảm xúc cá nhân thực ra chỉ là các phản ứng sinh hóa và bản thân mỗi người chỉ là một cỗ máy di động, thì động lực để chúng ta tiếp tục tồn tại là ở đâu?

Theo đó, tác giả cho rằng một hệ tư tưởng mới sẽ có thể xuất hiện trong tương lai là “dữ liệu giáo”. Con người sẽ coi dòng chảy dữ liệu là mục đích tối thượng của sự sống, và chúng ta sẽ trao quyền cho các thuật toán thông minh để tổ chức sắp xếp các mặt của cuộc sống. Trước mắt, chúng ta có thể cảm nhận sự manh nha của tôn giáo này, thể hiện qua sự mê say đến mức sùng bái của nhiều người với các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, big data, … Dữ liệu thay vì là công cụ, có khi sẽ tiến hóa để trở thành ông chủ của chính người tạo ra nó. Việc dữ liệu giáo có thể thống trị trong tương lai hay không thì vẫn còn rất khó nói, nhưng chỉ riêng việc đưa ra những tiền đề này để chúng ta tiếp tục suy nghĩ thêm đã là một cái hay của tác giả Homo Deus.

Cuốn sách này lần theo các nguồn gốc của những lập trình mà chúng ta chịu ảnh hưởng ngày nay để nới lỏng tay nắm của nó và cho phép chúng ta hành động khác đi, đồng thời cho phép trí tưởng tượng về tương lai của chúng ta tự do bay bổng. Thay vì bó hẹp chân trời của chúng ta bằng cách dự báo một viễn cảnh tuyệt đối duy nhất, cuốn sách hướng tới mở rộng chân trời của chúng ta và khiến ta ý thức được một dải các lựa chọn rộng hơn nhiều.

Đối với mình, Homo Deus là một buổi tiệc chiêu đãi kiến thức thật thịnh soạn, lại càng thêm thi vị bởi rất nhiều những suy ngẫm triết học. Quyển sách không đơn thuần nói về lịch sử hay tương lai bằng các sự kiện hay số liệu khô khan, mà xoáy sâu vào những động lực đằng sau cách con người suy nghĩ và vận hành thế giới. Chúng ta tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống mình ở đâu? – Đó mãi là một câu hỏi mà mỗi cá nhân cần chiêm nghiệm và tự tìm câu trả lời, bởi nó sẽ gián tiếp định hình sự phát triển chung của xã hội loài người. Khép lại quyển sách, tác giả để lại cho chúng ta ba câu hỏi lớn rất thú vị, mình xin trích lại đây để chúng ta cùng suy nghĩ:

Liệu sinh vật có thật chỉ là các thuật toán không, và liệu sự sống có thật chỉ là quá trình xử lý dữ liệu không?

Cái gì quan trọng hơn – trí tuệ hay ý thức?

Điều gì sẽ xảy ra với xã hội, chính trị, và đời sống hằng ngày khi các thuật toán phi ý thức nhưng trí tuệ cao biết ta rõ hơn ta biết chính mình?

[Review] Sách: Đi ra thế giới với người khổng lồ – Phan Văn Phương

Di ra the gioi voi nguoi khong lo - Phan Van Phuong

“Đi ra thế giới với người khổng lồ” có thể nói là một trong những quyển sách kinh doanh ấn tượng và giàu giá trị nhất mà mình đã may mắn đọc được.

Sách kinh doanh trên thị trường thì rất nhiều, nhưng thượng vàng hạ cám lẫn lộn, và đa phần tập trung vào các phương pháp marketing, bán hàng, hay nghệ thuật quản trị lãnh đạo là chủ yếu. Những quyển sách dành cho lĩnh vực sản xuất – công nghiệp chế tạo thì đa phần lại được viết bởi tác giả nước ngoài, khả năng ứng dụng cho điều kiện tại Việt Nam thường khá là hạn chế. Thế nên mình đã vô cùng bất ngờ và sung sướng khi tìm thấy cuốn sách này – một cuốn sách được viết bởi người Việt cho doanh nghiệp Việt.

Tác giả của quyển sách “Đi ra thế giới với người khổng lồ” là anh Phan Văn Phương, hiện đang là Giám đốc Trung Tâm R&D của TBS Group (Thai Binh Shoes Group). Chỉ gói gọn trong chưa đầy 300 trang là những kiến thức kinh doanh đắt giá và nguồn tài nguyên hữu ích cho các doanh nghiệp SME Việt Nam đang nuôi dưỡng hoài bão tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Có một vấn đề với nền kinh tế Việt Nam hiện nay mà mình cảm thấy rất trăn trở, chính là sự phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn FDI trong nhóm ngành sản xuất, chế biến chế tạo nhưng lại chưa xây dựng được hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ tương xứng. Đồng ý rằng với một nền kinh tế còn non trẻ như Việt Nam, việc các công ty nước ngoài đổ vốn đầu tư sản xuất ở nước ta đã tạo ra một nguồn lợi rất lớn về công ăn việc làm, từ đó thúc đẩy dòng tiền đi vào tiêu dùng và dịch vụ của cả nước. Tuy nhiên khi quan sát kỹ hơn, ta có thể thấy rằng các công ty nước ngoài chủ yếu chỉ đưa khâu sản xuất cuối cùng vào Việt Nam, tức là công đoạn lắp ráp thành phẩm, nơi mà họ có thể tận dụng lợi thế về nhân công giá rẻ và ưu đãi thuế quan.

Trong khi đó, Việt Nam lại không có nhiều công ty nắm được công nghệ gốc, hay có thể nói là “tinh hoa về chất xảm”, để có thể chủ động sản xuất nguyên liệu và phụ kiện cung cấp cho chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này dẫn đến một rủi ro tiềm ẩn, chính là việc các công ty nước ngoài sẽ dễ dàng di dời đến một đất nước khác khi mà lợi thế về giá nhân công của Việt Nam đang dần giảm đi sức hấp dẫn. Điều mình lo lắng là nhà nước và các công ty chỉ nhìn vào tăng trưởng GDP và nguồn vốn FDI đổ vào trong thời gian qua, mà nảy sinh tâm lý chủ quan, không ý thức được các hạn chế cần mau chóng khắc phục của ngành công nghiệp hỗ trợ. Nếu các công ty Việt Nam chỉ còn hài lòng với việc nhập khẩu hàng từ nước ngoài để làm thương mại dịch vụ, hoặc chấp nhận chỉ làm công đoạn lắp ráp thành phẩm cuối, thì nền kinh tế Việt Nam có lẽ sẽ khó mà tăng trưởng và cạnh tranh trong tương lai xa.

Đây cũng là vấn đề được tác giả chia sẻ và phân tích rất sâu sắc trong quyển sách với các dẫn chứng số liệu vô cùng cụ thể. Có lẽ vì bản thân mình đang trải nghiệm thực tế những khó khăn của một doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ đang cố gắng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, mà những chia sẻ của tác giả thật sự khiến mình thấm thía và đồng cảm. Thật là buồn biết bao khi thấy những đãi ngộ từ phía chính phủ, lại được doanh nghiệp nước ngoài tận dụng triệt để, trong khi chính doanh nghiệp nội địa lại rất chất vật để tiếp cận, đặc biệt là về nguồn vốn và hỗ trợ đất đai.

Tương tự trong kinh tế, khi chúng tôi đọc đến báo cáo về tỷ lệ phần trăm xuất khẩu, với kết quả các doanh nghiệp FDI chiếm phần lớn, thì đó là nỗi đau của những người hiểu câu chuyện “thua trên sân nhà”, hiểu lợi thế của đất nước đang bị các quốc gia khác tận dụng.

Đi ra thế giới với người khổng lồ

Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa mất cơ hội, và quyển sách này là một định hướng tuyệt vời cho các công ty sản xuất mong muốn được tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, trở thành đối tác của những người khổng lồ. Tác giả đã cung cấp các kiến thức và tư duy nền tảng từ việc lựa chọn mô hình kinh doanh, lựa chọn khách hàng và thị trường mục tiêu, đến quy trình R&D, xác định cấu trúc giá cả và chi phí, và quản trị chuỗi cung ứng. Tuy rằng những ví dụ mà tác giả đưa ra chủ yếu thuộc về ngành dệt may da giày, nhưng mình đánh giá là có tính ứng dụng rất cao, có thể mở rộng ra cho cả các ngành khác.

Ở lời giới thiệu về quyển sách, thạc sĩ Ngô Công Trường có nói rằng “cuốn sách sẽ giúp các doanh ghiệp Việt Nam đỡ “đổ máu” trên thương trường hơn, đặc biệt là tư duy doanh nghiệp tinh gọn”. Mình hoàn toàn đồng ý về nhận định này. Có khá nhiều kiến thức trong quyển sách mình ước rằng đã được biết sớm hơn, bởi nó đã có thể giúp doanh nghiệp mà mình đang làm việc tránh được một số sai lầm, cũng như tìm ra hướng đi đúng đắn sớm hơn. Đối với một công ty nhỏ đang loay hoay để phát triển, thì những gợi ý từ quyển sách là những chỉ dẫn vô cùng đắt giá và đem lại một niềm tin vững vàng hơn về khả năng vươn ra biển lớn của doanh nghiệp Việt Nam.

Đây là một quyển sách ngắn nhưng lại chứa đựng rất nhiều bài học. Tác giả có cách trình bày rất gãy gọn, súc tích, và đi theo một trình tự tư duy rõ ràng mạch lạc. Mình hy vọng quyển sách này được lan tỏa và biết đến thật rộng rãi trong cộng đồng doanh nhân Việt Nam, đặc biệt là những người đang làm trong ngành công nghiệp sản xuất xuất khẩu. Mình mong rằng một ngày nào đó, Việt Nam sẽ có các công ty có thể tự hào làm chủ các công nghệ gốc và là nhà cung cấp cấp 1 cho các thương hiệu lớn trên thế giới, để nguồn nhân lực của Việt Nam thật sự là của người Việt cho người Việt.

[Review] Factfulness – Sự thật về thế giới – Hans Rosling

Mười lý do khiến ta hiểu sai về thế giới – và vì sao thế gian này tốt hơn ta tưởng

Factfulness – Sự Thật về Thế Giới

Trong một thế giới ngày như càng nặng nề và u ám hơn bởi dịch bệnh hoành hành, căng thẳng chính trị, bất ổn kinh tế, nạn tin giả tràn lan và mọi người ngày càng có xu hướng phân cực trong mọi hệ tư tưởng, thì quyển sách Factfulness của tác giả Hans Rosling thật sự là một tia sáng quý giá của sự thật.

Hơn lúc nào hết, tôi cảm thấy đây là một quyển sách nên được tất cả mọi người tìm đọc và chiêm nghiệm trong thời điểm này để có một cái nhìn cảm thông và khách quan hơn về thế giới và xã hội xung quanh. Ngày nay, với sự bùng nổ của internet và mạng xã hội với đủ các thể loại tin tức trái chiều giật gân, thật sự rất khó để bất cứ ai trong chúng ta có thể tự tin rằng mình sẽ luôn giữ được sự tỉnh táo để xem xét mọi khía cạnh của vấn đề, thay vì nhảy ngay đến những kết luận mang tính quy chụp và phiến diện. Hơn nữa, khi mà bộ não chúng ta luôn bị thu hút hơn bởi những thông tin mang tính khẩn cấp hay bi kịch, theo thời gian, nếu không cẩn thận chúng ta sẽ dễ hình thành những thế giới quan méo mó và tiêu cực hơn so với thực tế.

Đọc tiếp “[Review] Factfulness – Sự thật về thế giới – Hans Rosling”

[Review] Sách: The Innovation Stack – Jim McKelvey

Maps are for tourists, not explorers

The Innovation Stack là một quyển sách về khởi nghiệp khá hay với nhiều góc nhìn và chiêm nghiệm đắt giá, được viết bởi Jim McKelvey – người đồng sáng lập công ty Square cùng với Jack Dorsey (Square là công ty chế tạo phần mềm và thiết bị đọc thẻ tín dụng cỡ nhỏ ở Mỹ từ năm 2009, ở Việt Nam thì có thể chưa nhiều người biết đến thiết bị này vì giao dịch bằng thẻ tín dụng trực tiếp ở Việt Nam còn khá thấp). Cũng chính vì sách được viết bởi đích thân người đã trải nghiệm quá trình khởi nghiệp, nên người đọc có thể cảm nhận một sự chân thực, gần gũi và lôi cuốn rất riêng, điều hơi hiếm thấy các quyển sách kinh doanh khác được viết từ góc nhìn của người ngoài cuộc.

Thoát ra khỏi mô phạm thường thấy của những quyển sách về kinh doanh, quyển sách này được viết ra không phải để hướng dẫn mọi người cách khởi nghiệp hay đưa ra các công thức thành công. Thay vào đó, tác giả muốn cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về các cơ chế đã cho phép sự sáng tạo đột phá trong khởi nghiệp ra đời.

Đọc tiếp “[Review] Sách: The Innovation Stack – Jim McKelvey”

[Review] Sách: Barking Up The Wrong Tree – Eric Barker

Tại sao hầu hết những điều bạn biết về thành công đều sai lầm

Barking Up The Wrong Tree Book Cover

Barking Up The Wrong Tree của tác giả Eric Barker là một quyển sách khá thú vị mà gần đây mình đọc được về chủ đề thành công. “Thành công là gì? Đâu là công thức để thành công?” – Có thể nói đây là một chủ đề muôn thuở đã được phân tích mổ xẻ bởi vô vàn chuyên gia và hàng triệu tư liệu từ sách vở, video, podcast, đến các khóa học, hội thảo. Tuy nhiên, theo cảm nhận riêng của mình thì hiếm có quyển sách nào có cách khai thác vấn đề đa chiều, khách quan, súc tích và có hệ thống được như vậy.

Đọc tiếp “[Review] Sách: Barking Up The Wrong Tree – Eric Barker”