[Review] Sách: Sapiens – Lược Sử Loài Người

Sapiens là một quyển sách kỳ lạ. Một quyển sách mà từng câu chữ tuôn ra lại gợi lên những hình ảnh vô cùng sống động, hệt như một thước phim tài liệu chiếu chậm của đài BBC, về một giống loài ưu tú đã thống trị mặt đất suốt hai triệu năm qua – loài Homo Sapiens.

Là một người không thường tìm hiểu chuyên sâu về lịch sử, thực sự tôi đã hơi chần chừ khi quyết định đọc quyển sách này, dù biết rằng đây là một quyển best-seller trên toàn thế giới và được nhiều nhân vật có tầm ảnh hưởng ca ngợi. Nếu không nhờ cơ duyên được một người bạn tặng sách, có lẽ tôi đã vô tình bỏ qua quyển sách thú vị này.

Trái với quan niệm cố hữu về sách lịch sử chỉ là những sự kiện theo dòng thời gian, khô khan và bất di bất dịch, tôi hoàn toàn bị bất ngờ về cách tác giả Yuval Hahari dẫn dắt người đọc qua từng giai đoạn phát triển của loài người dưới những góc nhìn đầy mới mẻ thách thức, cũng như những câu hỏi gợi mở mang tính triết học. Có thể nói hiếm có một quyển sách non-fiction nào khiến tôi có thể đọc một cách say sưa đến vậy, bởi cách đan cài khéo léo của tác giả về các chủ đề nhân quyền, kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa, khoa học, quân sự, cùng những lời bình luận hóm hỉnh, khiến Sapiens đem đến cảm giác gần như là một quyển truyện Thần Thoại Hy Lạp phiên bản tả thực cho văn minh nhân loại.

Đối với nhiều học giả, Sapiens nhận khá nhiều chỉ trích vì tính giản lược và thiếu toàn diện của nó. Tuy nhiên, theo tôi đó cũng chính là điều khiến Sapiens thành công, vì rõ ràng đại bộ phận chúng ta đều không quá mặn mà với việc thu nạp những kiến thức hàn lâm. Sapiens thu hút, chính xác là bởi cách tác giả đưa lịch sử trở thành những mẩu chuyện gần gũi dễ tiếp cận cho đại đa số người đọc, dù rằng phương pháp này có những hạn chế nhất định về mặt học thuật, nhưng không thể bàn cãi rằng nó thực sự đã thay đổi quan điểm của tôi về dòng sách lịch sử nói chung, và cho phép tôi nhìn nhận rõ ràng hơn về vai trò của lịch sử đối với sự phát triển của mỗi cá nhân.

Có vô số những ngã rẽ đã có thể xảy ra trong lịch sử, cũng có những sự thật hiển nhiên có lẽ nên được chất vấn. Lịch sử luôn tràn đầy những khả năng, đầy bất ngờ và khó lòng tiên liệu, nhưng đồng thời cũng tuân theo những định luật vận hành nhất định mà ở chính thời khắc đó chúng ta hoàn toàn không nhận ra. Việc ý thức sâu sắc những động lực đang định hình xã hội hiện tại sẽ cho phép ta suy ngẫm thấu đáo hơn về những sự lựa chọn mà chúng ta đang phải đối diện. Và đó có lẽ cũng chính là mục đích lớn nhất của tác giả khi đặt bút viết Sapiens – khơi gợi niềm say mê của số đông đối với lịch sử, để từ đó chúng ta, với tư cách giống loài, sẽ cùng tranh luận, tìm hiểu, và có những quyết định sáng suốt cho tương lai.

Không giống như vật lý hay kinh tế, lịch sử không phải phương tiện để đưa ra những dự đoán chính xác. Chúng ta nghiên cứu lịch sử không phải để biết tương lai, mà để mở rộng chân trời hiểu biết của mình, để hiểu rằng tình trạng hiện nay của chúng ta không phải do tự nhiên, cũng không phải do tất yếu, và kết quả là có nhiều lựa chọn hơn mình tưởng.

Sapiens: Lược Sử Loài Người
Đọc tiếp “[Review] Sách: Sapiens – Lược Sử Loài Người”

[Reflection] Đánh giá thương hiệu

Photo Source: inkbotdesign.com

Tôi may mắn được học lớp Brand Management vào học kì đầu năm 3, và đây là lớp học bắt đầu cho đam mê tìm hiểu về thương hiệu của tôi. Trước khi học lớp này, khái niệm của tôi về thương hiệu và marketing rất mù mờ, tôi cứ nghĩ đơn giản thương hiệu là tên một công ty, và thú thật là lúc đó số thương hiệu quốc tế mà tôi biết được rất ít. Thông qua các case study và tự tay làm một project Đánh giá thương hiệu (Brand Assessment), tôi nghĩ rằng tôi đã học hỏi được khá nhiều điều hay và nhận biết được một số sai lầm nên tránh khi làm thương hiệu. Bài viết này của tôi chủ yếu là để ghi chú lại một số những thứ thú vị tôi học được.

1. Bài học đầu tiên mà thấy giáo “khủng bố” lớp học tôi, trích nguyên văn, là: “I don’t give a shit about you. You are not my target market. Don’t make inferences from your own behaviour to generate hypotheses.”  Ý của thầy là, khi làm marketing, cần tránh việc suy diễn thói quen của mình thành thôi quen của người tiêu dùng. Đừng bao giờ rơi vào cái bẫy “tôi cho rằng ngưỡi tiêu dùng sẽ abc xyz” nếu không có chứng cứ xác thật. Nếu không có bằng chứng thì phải biết tự đi tìm bằng chứng, cho dù không chính xác 100% thì ít ra vẫn có cơ sở để đưa ra kết luận. Cá nhân tôi cho rằng đây là một bài học cực kì quan trọng, bởi vì bản thân chúng ta rất có xu hướng dựa vào những gì chúng ta biết được để đưa ra kết luận, mà không ý thức rằng sự nhận thức của chúng ta là hữu hạn, và đa phần là không đại diện cho số đông. Thầy cô tôi đều bảo họ đã gặp qua rất nhiều vị sếp hoàn toàn không hiểu đối tượng khách hàng của họ là ai, sinh hoạt ra sao, tin tưởng điều gì. Khi làm marketing, xác định target market là nhiệm vụ hàng đầu, vì tất cả mọi thông điệp thương hiệu đưa ra đều phải dựa trên đối tượng này. Mà tôi thiết nghĩ bài học đó không chỉ ứng dụng cho marketing, mà còn cho tất cả mọi thứ sản phẩm và dịch vụ. Sau này, khi nhận xét về một thương hiệu hay một hình thức giải trí bất kì, tôi luôn cố gắng cẩn trọng khi suy nghĩ đến đối tượng được phục vụ là ai, sử dụng trong hoàn cảnh nào. Sẽ rất nực cười nếu tôi đọc sách cho con nít mà đòi triết lý sâu xa tình tiết phức tạp, hoặc tiếp cận đối tượng người lớn tuổi mà lại làm digital campaign.

2. “What is a brand? Brands are merely symbols that evoke associations (stories, images, thoughts, feelings, beliefs). And these associations form a brand’s meaning (aka: image, identity, personality).” Tôi thích cái định nghĩa này. Logo và trademark không phải là brand nếu nó không gợi lên được bất cứ ý nghĩa nào trong tâm trí người tiêu dùng. Brand hình thành khi người ta có thể liên hệ nói với một câu chuyện, hình ảnh, suy nghĩ, cảm xúc, hay niềm tin nào đó. Nếu không gây dựng được thương hiệu thì sản phẩm sẽ bị “commoditized”, hay nói cách khác là “bị đại trà hóa”. Một sản phẩm như vậy sẽ không tạo được lý do để người dùng trả mức giá cao hơn cho nó. Người tiêu dùng không chỉ mua sản phẩm, họ mua lời hứa và lối sống mà thương hiệu đem lại. Vậy nên, nói đơn giản, quản trị thương hiệu chính là xây dựng ý nghĩa cho một thương hiệu và sử dụng chúng để tạo nên lợi nhuận trong kinh doanh.

3. Tại sao mà một số thương hiệu có thể mở rộng thành công từ ngành này sang ngành khác, trong khi một số thương hiệu lại thất bại? Ví dụ về một số thương hiệu mở rộng thành công: Diesel từ quần jeans sang rượu, Evian nước khoáng sang Evian mỹ phẩm chăm sóc da, National Geographic từ tạp chí sang dịch vụ trang trí nội thất. Trong khi đó, một số thương hiệu mở rộng lại thất bại, ví dụ như Colgate từ kem đánh răng sang thức ăn đông lạnh, Clorox từ thuốc tẩy sang hộp cát cho mèo đi vệ sinh. Mấu chốt quyết định nằm ở ý nghĩa chủ lực của một thương hiệu. Clorox thất bại vì họ cho rằng họ đang lợi dụng ý nghĩa “sạch” và “tiệt trùng” trong ý nghĩa thương hiệu thuốc tẩy Clorox để gán lên hộp đi vệ sinh của mèo. Tuy nhiên, nghiên cứu sau này lại để lộ ra rằng ý nghĩa mà khách hàng liên hệ mạnh nhất với Clorox là “tẩy trắng”. Đó là lí do mà khách hàng không muốn mua hộp cát cho mèo đi vệ sinh mang hiệu Clorox, vì họ sợ rằng mèo của họ sẽ bị tẩy trắng. Nghe có vẻ nực cười nhỉ? Tuy nhiên, đó là một bài học đắt giá mà nếu người làm thương hiệu không cẩn thận sẽ dễ mắc phải. Khi quản trị một thương hiệu, người quản lý nên biết rõ đâu là ý nghĩa mà khách hàng liên hệ mạnh nhất với thương hiệu. Nó không chỉ giúp họ biết cách định vị thương hiệu cho chính xác hơn, mà còn giúp họ truyền đạt thông điệp hiệu quả hơn. Đặc biệt, khi muốn mở rộng thương hiệu sang một ngành khác, nắm được ý nghĩa chính mà thương hiệu chiếm giữ trong tâm trí người tiêu dùng sẽ giúp ho lựa chọn ngành phù hợp. Ví dụ, ý nghĩa chủ lực của Evian là suối nguồn tượi trẻ, vì vậy mà thương hiệu này có thể lợi dụng ý nghĩa đó trong ngành chăm sóc da. Theo như thầy của tôi, brand manager ngày nay thường có xu hướng say đắm thương hiệu và hiểu thương hiệu theo cách mà công ty muốn họ hiểu, trong khi thương thiệu thật sự lại mang ý nghĩa khác xa với người tiêu dùng. Tôi nghĩ nếu tôi có cơ may làm brand manager sau này, thì tôi sẽ cố gắng không phạm sai lầm này.

4. Free Association Test – bài test để đánh giá ý nghĩa thương hiệu. Bài test này khá đơn giản, nhưng đòi hỏi sự quan sát cẩn thận và chọn câu hỏi thích hợp, cũng như một quá trình phân tích kỹ lưỡng sau đó. Để làm free association test, điều đầu tiên là phải xác định người được hỏi nằm trong target market của thương hiệu. Nếu không, mọi thông tin thu được sẽ là vô nghĩa. Khi làm bài test này, người hỏi phải để ý kĩ tốc độ mà người nghe trả lời, cử chỉ cơ thể, để phân biệt ra first associations và second associations. Lúc tôi làm bài test này với VitaminWater (một thương hiệu thuộc Coca Cola), tôi từng nhận được những câu trả lời vô cùng bất ngờ, không quá khả quan cho thương hiệu, ví dụ như fake, hypocrite, artificial. Nếu bài test này được làm đúng thì một người quản lý thương hiệu có thể sẽ phát hiện được rất nhiều vấn đề đang tồn tại với thương hiệu, mà bình thường có lẽ chẳng có report nào cho họ biết được.

[Thoughts] Art, Copy & Code – “Re-imagine Advertising”

art-copy-code-ili-noviqt-proekt-na-google

Đầu năm 2013, Google khởi động dự án Art, Copy & Code tiếp sau thành công của dự án Project Re:Brief với lý tưởng biến các thông điệp quảng cáo trở thành những trải nghiệm độc đáo nhất cho người sử dụng nhờ công nghệ thông tin.

Đã qua rồi thời mà quảng cáo đơn thuần là những bản tin đăng báo, những mẩu phát thanh, những thước phim trên TV, người tiêu dùng không còn lệ thuộc vào quảng cáo, và họ không chỉ ngồi một chỗ để được dội bom quảng cáo. Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của Internet và thông tin ngày càng trở nên bão hòa, sự tương tác giữa người tiêu dùng và thông điệp quảng cáo trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết. Chính sự tương tác này sẽ quyết định mức độ ghi nhớ, yêu thích, và sự trung thành của khách hàng đối với thương hiệu. Để làm được điều này, những người làm marketing tận dụng những trang mạng xã hội để gần khách hàng hơn. thiết kế website thông minh hơn, hay tạo ra vô vàn các ứng dụng trên các thiết bị di động. Lúc này đây, quảng cáo đã thoát ra khỏi phạm vi truyền thống là Art và Copy – nghệ thuật và từ ngữ. Sự phát triển của công nghệ đòi hỏi một yếu tố mới năng động và linh hoạt hơn, đó là Code – mã lập trình.

Code đóng vai trò thế nào ư? Nói một cách đơn giản dễ hiểu, Code chính là yếu tố giúp “cá nhân hóa” bất kì mẫu thông điệp quảng cáo nào, khiến cho những gì bạn đọc, nghe, nhìn được là những trải nghiệm hoàn toàn thuộc về cá nhân bạn. Tuy nhiên sự “cá nhân hóa này” không chỉ dừng ở giới hạn khách hàng tiếp nhận thông điệp mà còn tiến xa hơn tới việc khách hàng muốn tương tác với sản phẩm và thương hiệu. Bằng cách khiến khách hàng cảm thấy bản thân đặc biệt hơn, được quan tâm săn sóc hơn, việc “cá nhân hóa” này sẽ góp phần tạo nên mối dây liên hệ tình cảm mật thiết hơn giữa thương hiệu và khách hàng. 

Nắm bắt xu hướng này, Google, với tầm vóc của người khổng lồ luôn dẫn đầu công nghệ và thu lợi nhuận từ quảng cáo mạng, một lần nữa khẳng định vị trí của mình bằng cách hợp tác với những thương hiệu nổi tiếng khác để tạo nên những chiến dịch marketing không chỉ giàu hơn về hình thức nội dung mà còn giàu hơn về xúc cảm và kết nối với người dùng. Nghệ thuật kể chuyện và sự thấu hiểu khách hàng vẫn luôn là cốt lõi làm nên sự thành công của bất kì thông điệp quảng cáo nào – điều này đến giờ vẫn không hề thay đổi, tuy nhiên, cách tiếp cận nhờ kĩ thuật trong thời đại hiện nay sẽ càng khiến sự sáng tạo được phát huy mạnh mẽ và mang lại nhiều giá trị cho khách hàng hơn. Hãy xem đoạn giới thiệu này để cảm nhận rõ hơn tinh thần của dự án Art, Copy & Code.

Sau đây là một số những dự án mà Google hợp tác thực hiện nằm trong chương trình Art, Copy & Code.

SmileDrive

https://www.youtube.com/watch?v=qM9ce0C1iWo

Dự án đầu tiên là ứng dụng SmileDrive cho xe hơi do Google hợp tác với Volkswagen. Ứng dụng này cho phép người dùng kết nối với xe hơi của họ và đo mức độ vui vẻ của từng chuyến đi dựa trên những thông số như thời gian, địa điểm, quãng đường, thời tiết, cũng như những hoạt động và hình ảnh được chia sẻ với người khác dọc theo hành trình. Dù SmileDrive có khả năng tương thích với cả những hãng xe khác ngoài Volkswagen, hiệu quả truyền thông của ứng dụng này thực chất nằm ở việc nó giúp thể hiện và đẩy mạnh tinh thần chiến dịch “Get In. Get Happy” năm 2013 của Volswagen theo một cách thực tiễn hơn. Với ứng dụng SmileDrive, Volkswagen đã tiến một bước xa hơn trong việc truyền tải được thông điệp xe không chỉ là một phương tiện di chuyển nhàm chán, mà mỗi giây phút ngồi trên xe đều có thể góp phần tạo nên một hành trình thú vị.

Burberry Kisses

Một dự án khác cũng gây được nhiều chú ý gần đây là ứng dụng Burberry Kisses cho phép người dùng gửi những cánh thư điện tử được niêm phong lại với một nụ hôn của chính người gửi. Vừa thân mật, riêng tư, nồng nàn cảm xúc, lại mang phong cách quý phái cổ điển, Burberry Kisses khiến người dùng cảm nhận rõ nét hơn đẳng cấp sang trọng của Burberry, cũng đồng thời tạo nên giá trị lan truyền mạnh mẽ cho thương hiệu bởi cách thể hiện thông điệp tình yêu vô cùng ấn tượng. Với mục tiêu hướng đến những người trẻ đang quay lưng lại với quảng cáo truyền thống, Burberry Kisses đã thành công trong việc thỏa mãn tiêu chí giúp mọi người kết nối một cách tiện lợi nhanh chóng mà vẫn giữ được nét lãng mạn truyền thống của thương hiệu.

Talking Shoes

Một dự án nữa là đôi giày biết nói “Talking Shoes” hợp tác bởi Google và YesYesNo – một công ty về công nghệ tương tác – để nhân bản hóa đôi giày Adidas. Bằng ứng dụng công nghệ, Google thổi hơi tính cách cho chiếc giày, và trao cho nó khả năng bình luận, biểu lộ cảm xúc cùng mỗi bước đi của bạn. Trong tương lai, hãy tưởng tượng xem công nghệ này được các hãng dụng cụ quần áo thế thao vận dụng trong quảng cáo thế nào, chắc chắn là sẽ rất thú vị.

Kết luận:

Art, Copy & Code là cách Google thể nghiệm sự kết hợp giữa công nghệ và nghệ thuật kể chuyện để tạo nên những quảng cáo có ý nghĩa và thực dụng hơn. Trên phương diện PR, đây là một kế hoạch xây dựng thương hiệu xuất sắc. Còn trên phương diện khách hàng, điều này cũng thể hiện rõ đường lối hoạt động của Google là đem đến nội dung có ích hơn cho người dùng, hoàn toàn nhất quán với những thay đổi gần đây trong chính sách vận hành công cụ tìm kiếm của Google. Nếu xét sâu sa hơn thì có lẽ đây là bước chuẩn bị của Google cho việc ra mắt Google Glasses hay những sản phẩm thông minh khác trong thời gian sắp tới, cũng đồng thời giúp hoàn thiện hệ sinh thái Google+. Tất cả mọi thứ đều liên kết, và tất cả mọi thứ đều dẫn về Google. Có phải đó là dụng ý của người khổng lồ? Chúng ta hãy cùng chờ xem.

[Cảm nhận] Này những phong hoa tuyết nguyệt

Image

Tôi thích Này những phong hoa tuyết nguyệt trước hết là vì văn phong. Giọng văn Công Tử Hoan Hỉ khiến câu chuyện trở nên êm ả đằm thắm đến lạ, như một dòng sông nhỏ lững lờ chảy, như một áng mây bồng bềnh trôi. Đó là một câu chuyện kể xuôi, từ khi hai nhân vật còn bé tí cho đến khi trưởng thành, nhưng không khí truyện lại nhuốm màu sắc hoài niệm. Có lẽ cũng vì thé mà độc giả tìm được mối dây liên hệ tình cảm với NNPHTN, vì sau hết thảy mọi biến động của thời học sinh, tất cả chỉ còn là những kỉ niệm, nhẹ nhàng, ngọt ngào, và đầy lưu luyến. Công Tử không khai thác cái chất máu lửa và nhiệt huyết hừng hực của đám thanh niên choai choai, thay vào đó nàng cho người đọc khám phá những cung bậc tình cảm trầm lắng hơn, không phải những sự kiện lớn mà là những điều giản dị hơn trong học đường – thứ vẫn tồn tại trong lòng mọi người nhưng rất dễ bị lãng quên và bỏ qua khi người ta nhớ lại. Đọc tiếp “[Cảm nhận] Này những phong hoa tuyết nguyệt”