
Gần đây, khi cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraina nổ ra, có một từ khóa mà mình bỗng nhiên lại nghe nhắc tới với tần suất nhiều hơn hẳn, đó là từ “địa chính trị”. Vẫn biết địa lý đóng vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia và là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh xâm lược trong quá khứ, nhưng ở thời kỳ tương đối hòa bình hiện tại, khi mà hợp tác quốc tế dường như là xu hướng tất yếu, mình đã phần nào nghĩ rằng địa lý không còn là một rào cản quá lớn giữa các nước. Những căng thẳng đối đầu khi xưa có thể sẽ được dàn xếp để ưu tiên lợi ích kinh tế thương mại.
Thế nhưng có vẻ đó là một suy nghĩ có phần ngây thơ, bởi khi đọc quyển “Những tù nhân của địa lý” của Tim Marshall, một phóng viên và nhà báo người Anh, mình nhận ra rằng có lẽ các lãnh đạo quốc gia sẽ còn mất một thời gian rất dài để thoát khỏi “nhà ngục địa lý” đã hằn sâu trong tâm trí họ. Những đường biên giới và lãnh thổ ngày nay dù cho được hình thành bởi tự nhiên hay nhân tạo, tất cả đều được đổi bằng máu của biết bao thế hệ, sẽ tiếp tục tác động lên các chính sách đối ngoại của các nước.
Bản thân mình trước giờ khi nghĩ về địa lý thường chỉ nhớ đến các yếu tố như khí hậu, cảnh quan, hoặc các tài nguyên phục vụ mục đích kinh tế, chứ không nghĩ nhiều đến tính chiến lược của vị trí mỗi quốc gia trong tương quan với các nước khác. Phải thú thật là, có lẽ quốc gia duy nhất mà mình nắm được tương đối giá trị của địa lý với quân sự hay thương mại cho tới giờ chỉ có mỗi Việt Nam, quê hương của mình. Mãi đến khi đọc cuốn sách này, mình mới nhận thức được rõ nét hơn về cách địa lý đã và đang tác động lên quan hệ quốc tế của các nước, cũng như có một kiến thức nền tốt hơn để hiểu các tin thời sự đang diễn ra mà trước đây mình khá mù mờ.
Quyển sách được tác giả bố cục thành 10 chương, cũng là 10 vùng địa lý mà tác giả đi vào chi tiết, bao gồm: Nga, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Tây Âu, Châu Phi, Trung Đông, Ấn Độ và Pakistan, Triều Tiên và Nhật Bản, Châu Mỹ Latin, Bắc Cực. Ở mỗi chương, tác giả luận giải việc các kiến tạo tự nhiên giúp một quốc gia đạt được sức mạnh về kinh tế hay quân sự thế nào, chia cắt các sắc tộc ra sao, tạo nên các hàng rào phòng thủ tự nhiên hay đòi hỏi các biện pháp vũ trang cứng rắn.
Việc tác giả bắt đầu cuốn sách với chương về Nga có thể nói là một sự trùng hợp rất thú vị bởi ở thời điểm hiện tại khi mà cuộc chiến giữa Nga và Ukraine vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại, nó giúp mình nhận thức được rõ hơn bao giờ cái mà tác giả gọi là “tù nhân của địa lý”. Việc đất nước này thiếu một cảng nước ấm kết nối tự do ra các đại dương mà không bị đóng băng vào mùa đông, cũng như vùng biên giới bằng phẳng dễ công khó thủ của Nga ở đồng bằng Bắc Âu, luôn mãi là hai yếu điểm tự nhiên làm ám ảnh biết bao thế hệ lãnh đạo của đất nước này, từ Đại Công quốc Muscovy, qua thời Peter Đại Đế, đến Stalin và Putin. Để phần nào khắc phục điều này, Nga đã đánh đổi rất nhiều, bao gồm việc chiếm lại Crimea để xây dựng hạm đội hải quân tại cảng Sevastopol cũng như chi phối các đảng phái chính trị để giữ Ukraine là một nước trung lập không thuộc NATO nhằm duy trì vùng đệm phòng thủ cho mình.
Có thể với một người dân bình thường như mình, việc Ukraine có muốn gia nhập NATO hay không là chuyện của họ và chúng ta nên tôn trọng điều đó. Thế nhưng đối với một lãnh đạo như Putin, đây có thể ví như việc kẻ thù đang đem vũ khí đến sát cửa và có thể đe dọa an toàn lãnh thổ của Nga bất cứ lúc nào. Bỏ qua tất cả những lợi ích mà hòa bình mang lại cho kinh tế của Nga, bất chấp các quyết định trừng phạt quốc tế, Putin vẫn phát động chiến tranh để ép Ukraine từ bỏ ý định này. Putin có thể có lựa chọn khác đi không? Sẽ có nhiều người cho rằng chính vì địa lý của Nga mà Putin buộc phải tấn công như vậy, ông chỉ đang chơi ván bài mà tự nhiên đã sắp xếp cho Nga, và đó chính xác là “nhà tù” mà tác giả nói tới. Rất khó để những nhà lãnh đạo của một nước tin rằng những đường biên giới của họ sẽ luôn được bảo hộ an toàn, cũng như không ai muốn bị đặt vào thế bị động trong quận sự, và ngay cả sự hội nhập toàn cầu hóa cũng sẽ không xóa nhòa đi được những song tù tâm lý vô hình này.
Tương tự như vậy, Trung Quốc dù có nền kinh tế hợp tác chặt chẽ với Mỹ, nhưng về mặt chính trị hay quân sự, nước này luôn e ngại việc các hạm đội của mình bị cô lập khi đi ngang vùng biển Nhật Bản và eo biển Malacca, vốn được kiểm soát bởi các nước thân cận với Mỹ. Điều này dẫn đến việc họ không ngừng tìm kiếm một con đường khác để tiếp cận đại dương một cách tự do hơn, như là thuê cảng nước sâu tại Gwadar, Pakistan và cố gắng thiết lập tuyến đường bộ dẫn thẳng đến Trung Quốc, hay như việc xây dựng các đường ống dẫn khí và dầu mỏ nối trực tiếp đến vịnh Bengal thông qua Miến Điện. Và cũng như việc Nga muốn kiểm soát Ukraine, Trung Quốc kiên quyết muốn kiểm soát Tây Tạng để tạo ra một vùng đệm biên giới an toàn trước Ấn Độ, đồng thời đảm bảo thượng nguồn của ba con sông lớn của Trung Quốc sẽ không bị nước nào khác khống chế. Để đạt được mức độ phòng thủ cao nhất và giảm thiếu những hạn chế về mặt vị trí địa lý tự nhiên, các lãnh đạo Trung Quốc sẽ không ngừng thực hiện các chính sách đối ngoại vừa hợp tác vừa gây sức ép lên các nước lân cận, đồng thời dùng quyền lực mềm để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế.
Chương sách về Châu Phi và Trung Đông khắc họa hoàn cảnh của những quốc gia bị cầm tù trong không gian địa lý vừa do bàn tay tự nhiên sắp đặt, vừa do lịch sử nhào nặn. Quyển sách chỉ ra rất nhiều xung đột ở khu vực này thực chất là kết quả của sự vô trách nhiệm trong quá khứ khi các nước thực dân đã vạch ra những đường biên giới nhân tạo mà không hề có chút trân trọng với lịch sử và văn hóa người dân địa phương, để lại hậu quả là những cuộc chiến tranh sắc tộc dai dẳng đến tận ngày nay. Bản thân địa lý của những khu vực này đã hạn chế giao thương và tách biệt các dân tộc với nhau, việc tùy tiện cưỡng ép họ hợp thành các quốc gia dân tộc, vốn đòi hỏi một căn tính quốc gia thống nhất, chỉ làm trầm trọng thêm các vấn đề bạo lực diễn ra ở đây. Tuy vậy, rất may mắn là về mặt kinh tế, các quốc gia ở đây đang có những bước tiến mới nhờ tận dụng được lợi thế tài nguyên khoáng sản và đang sử dụng công nghệ để khắc phục những bất lợi mà tự nhiên an bài trước đây, như là tạo nên những cảng biển nước sâu và các ốc đảo bao quanh bởi sa mạc.
Ở vị trí ngược lại, các nước ở châu Âu được hưởng lợi rất nhiều về mặt địa lý tự nhiên, cho phép sự thông thương và phát triển kinh tế vượt trội, trở thành những nước cường quốc có điều kiện mở rộng phạm vi của mình khắp thế giới. Đây là những nước đi đầu trong lý tưởng về một thế giới phẳng hơn, nơi mà các nước có cùng những giá trị dân chủ và nhân quyền sẽ có thể hợp tác với nhau khăng khít hơn thông qua những chính sách kinh tế, đối ngoại và quân sự chung. Tuy nhiên, khi phải đứng trước các thách thức thực tiễn về việc các nước giàu phải giúp đỡ các nước nghèo hơn, hoặc về việc đón nhận các dòng người nhập cư hay tị nạn từ Trung Đông và châu Phi, mối dây liên kết giữa các nước EU lại có dấu hiệu tan rã, và các nước lại quay về cố thủ trong những đường biên giới của mình. Có lẽ đúng như tác giả nhận định, “địa lý cho chúng ta biết rằng nếu con người không liên tục cố chiến thắng các ‘quy luật’ của nó, thì những ‘quy luật’ ấy sẽ chiến thắng con người”, “đến lúc đó, chúng ta sẽ quay trở lại với một châu Âu với những quốc gia có chủ quyền, với việc mỗi một nhà nước đều tìm kiếm đồng minh trong một thế cân bằng của hệ thống quyền lực”.
Tuy nhiên, mình không nghĩ mục đích của tác khi viết quyển sách này là để nói rằng số phận các quốc gia là tất định, hay để tán đồng với các chính sách đối ngoại của lãnh đạo các nước dựa trên lý thuyết của địa chính trị. Thay vào đó, tác giả muốn chúng ta có một khung nền kiến thức bao quát để lý giải được những sự kiện đã và đang diễn ra trên thế giới, nhằm có những cuộc thảo luận chất lượng hơn về tương lai của loài người nói chung. Chúng ta vẫn sẽ bị giới hạn bởi môi trường, nhưng nhờ khoa học công nghệ, thế giới trong tương lai có thể sẽ được định hình bởi những mảng địa lý nhân tạo nhiều hơn bởi tự nhiên. Để rồi, khi mà con người có thể vượt lên được gông cùm tâm lý của sự sợ hãi và tham lam, cởi bỏ được sự nghi ngờ của mình đối với những “kẻ khác”, chúng ta sẽ có cơ hội thoát khỏi sự kìm hãm của địa lý để đem lại lợi ích chung cho tất cả mọi người.
Khép lại cuốn sách, mình tin rằng đây là quyển sách rất bổ ích và thú vị với những ai ít nhiều có mối quan tâm về các sự kiện thời sự đang diễn ra. Địa lý, chính trị hay lịch sử thường là những đề tài khô khan đối với số đông người đọc, thế nhưng cây bút kỳ cựu Tim Marshall đã rất khéo léo lồng nghép những chủ đề này để vẽ nên một bức tranh sinh động về mối quan hệ quốc tế giữa các nước. Đương nhiên đây cũng là những đề tài rất rộng nên những gì tác giả khai thác để viết vào sách chủ yếu mang tính chất nhập môn và khơi gợi hứng thú để người đọc tiếp tục tìm hiểu thêm. Ngoài địa lý thì sự phát triển của các quốc gia còn chiu sự chi phối của hệ tư tưởng, tôn giáo, thể chế pháp luật, khác biệt sắc tộc, đây là những điều tác giả có đề cập đến nhưng theo mình chưa đi đủ sâu sát trong quyển sách. Vấn đề di dân và việc hình thành căn tính của một quốc gia dân tộc cũng là những đề tài mà mình sẽ rất hứng thú để tìm hiểu thêm sau khi đọc qua quyển sách này.




